Tìm kiếm
Trang chủ
Diễn đàn
An Tĩnh cổ lục
* Dấu tích Việt Thường Thị và vai trò Nghệ An trong dòng lịch sử Việt Nam
* Những điều kỳ lạ Phlanhoa đọc được trong trời đất Việt Thường
* Việt Thường phong tục
Ẩm thực Nghệ An - Hà Tĩnh
* Văn hóa ẩm thực Việt Nam
* Dưỡng sinh
* Phật giáo có nguồn gốc ở Việt Nam
Khảo cổ Nghệ Tĩnh
Bản sắc văn hóa Xứ Nghệ
Ví dặm
Góc nhìn Phlanhoa
Phòng văn chương
 Phlanhoa viết
 Phản biện các nghiên cứu về Nguyễn Du và Truyện Kiều
 Văn hay sưu tầm
 Thú chơi tập Kiều
 Sưu tầm để ngẫm
 Tìm hiểu về thể loại câu đối
 Láo nháo
 Thư pháp
 Tâm hồn người Việt
* Bình luận
* Phản biện các nghiên cứu về Nguyễn Du và Truyện Kiều
* Phlanhoa viết
Phòng thơ
* Lý thuyết học làm thơ
* Thơ về Nghệ An - Hà Tĩnh
* Thơ Phlanhoa
* Thất ngôn bát cú
Du lịch đó đây
* Khoảnh khắc cuộc sống
Ngôn ngữ không lời
Trang thông tin xã Đức La
* Phlanhoa hát
Liên hệ - Góp ý
Liên kết website
TẬP KIỀU GỬI HAI VỊ “HẬU SINH KHẢ UÝ” ĐỖ MINH XUÂN VÀ VŨ KHIÊU
 
(19h: 12-04-2014)
Tập Kiều của Phlanhoa
***

Lời tựa:
Sau khi đọc được bài viết "SAO ÔNG VŨ KHIÊU LẠI NỐI GIÁO CHO VIỆC SỬA TRUYỆN KIỀU VÔ LỐI?" của tác giả Thế Anh. Chẳng biết nói gì hơn với người tự nhận mình là "hậu sinh khả uý" ?!

Thật là tai hại thay! Chẳng hiểu là bằng cách luồn lách nào đó (liệu có phải là"hẳn ba trăm lạng kém đâu" để đi từ cửa nhà GS kiêm AHLĐ Vũ Khiêu?!) , tác phẩm đã được NXB văn hóa thông tin phê duyệt in ấn?! Nếu các cháu học sinh mà đọc phải thì khôn lường hệ quả ?! Có lẽ dòng họ Nguyễn Tiên Điền cần làm một thủ tục về "bản quyền Truyện Kiều", để về lâu dài sẽ không có thêm một dị bản điên rồ nào nữa làm nguy hại đến tuyệt tác Truyện Kiều!

Nghẹn lòng trộm nhớ tới một trong những thú chơi Kiều trong thiên hạ là "Tập Kiều". Bèn "cảo thơm lần dở trước đèn", chọn lấy mấy câu ghép thành bài tập Kiều để nói lên cảm xúc của mình...

   TẬP KIỀU GỬI  HAI VỊ “HẬU SINH KHẢ UÝ”

ĐỖ MINH XUÂN VÀ VŨ KHIÊU
Phlanhoa
***
Trăm năm trong cõi người ta (1)
Làm cho khốc hại (11) có ba bảy đường (3116)
Mặt sao dày gió dạn sương (1237)
Đem lời phương tiện (1750) tìm đường nói quanh (2042)
Nghĩ đà bưng kín miệng bình (1577)
Chờ xem(118): rẻ rúng đã dành một bên (516)
Phẩm tiên rơi đến tay hèn (789)
Mạt cưa mướp đắng, đôi bên một phường (812)
Thang mây dón bước ngọn tường (319)
Vương sư dòm đã tỏ tường thực hư (2506)
Đòi phen vẽ nét câu thơ (1245)
Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu (486)
Trải qua một cuộc bể dâu (3)
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng (4)
Hỏi sao ra sự lạ lùng? (763)
Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê ! (1306)
Sao chẳng biết ý tứ gì (1861)
Tuy rằng vui chữ (2843), lại bia miệng cười (1588)
Rằng: quen mất nết đi rồi (493)
Sau cho để một trò cười về sau (1620)
Hẳn ba trăm lạng kém đâu? (829)
Dạy rằng: mộng Triệu cứ đâu (235) tột vời !(151)
Cho hay (2391): đừng lấy làm chơi (501)
Trăm nghìn đổ một trận cười như không (1304)
 
***
Tấc gang động toả nguồn phong (285)
Đốt lò hương, giở phím đồng ngày xưa (2850)
Rõ ràng mở mắt còn ngờ (3014)
Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng (542)
Thoa này bắt được hư không(305)
Ba mươi sáu chước (1110) ở trong cõi đời (2632)
Đắn đo cân sắc cân tài (639)
Mua vui cũng được một vài trống canh (3254)
==============================================  

Để tiện đường quý vị quan tâm theo dõi. Sau đây là nguyên văn "Dị bản Truyện Kiều" của Kỹ sư cơ khí Đỗ Minh Xuân: 

Truyện Kiều Nguyễn Du với tiếng Việt hiện đại, phổ thông, đại chúng và trong sáng.

Lời mở đầu ( mở rộng )

☻☺☻☺☻

Người khảo dịch KS. Đỗ Minh Xuân

           Tôi không có ý định nghiên cứu Truyện Kiều. Nhưng số phận đã đưa tôi đến với  Nguyễn Du.

           Lúc đầu, năm 2007, tôi tìm đến với Truyện Kiều là đọc cho vui. Nhưng từ nhiều sai lỗi về  in ấn và sự vô trách nhiệm, có bản in thiếu hai đoạn: 529-560 thiếu 32 câu và 1249-1262 thiếu 14 câu. Buộc tôi phải sưu tầm trong số bạn bè các bản Truyện Kiều xuất bản trước đây. Sau khi đọc, tôi đã phát hiện ra những sự khác nhau cần phải bàn cãi giữa các bản Truyện Kiều đã sưu tầm được. Vì thế, mà tôi đã “đánh bạo” được góp phần làm sáng tỏ những vấn đề cần bàn cãi đó.

           Truyện Kiều được Nguyễn Du viết bằng chữ nôm vào cuối Thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX (1796 – 1801, theo tài liệu (3)). Thời kỳ này, chữ nôm đang hình thành và phát triển. Chữ nôm là sự sáng tạo kết hợp bởi hai yếu tố cơ bản là “âm” và “nghĩa”của từ Hán. Tuy vậy, cũng vẫn dùng “thuần âm” hoặc “thuần nghĩa” trực tiếp của từ Hán.

           Vì đặc thù của chữ nôm là “lựa viết” (phụ thuộc vào người viết) và “đoán đọc” (phụ thuộc vào người đọc). Bởi cùng một âm, mà mỗi người cũng có thể viết một kiểu (“Tử” là chết lại viết “Tử” là cây thị). Trái lại, cùng một chữ, mỗi người cũng có thể đọc một khác (“Chờ chờ”, “trờ trờ”, “sờ sờ”, “sè sè”, “se se”). Chưa nói đến viết “tắt”, viết không đủ nét (khác giản thể). Nên cần phải dựa vào chữ và văn cảnh cụ thể mà đoán đọc (dịch) cho sát. Như quốc ngữ viết tắt hoặc không có dấu về âm sắc.

           Thời Nguyễn Du, còn thịnh “tầm chương, trích cú” là trong tác phẩm văn chương, Nho sĩ nào càng dẫn được nhiều tích-điển, nhiều tiếng cổ, tiếng địa phương khéo léo và hiệu quả thì càng thể hiện được sự học hỏi uyên thâm của mình. Như vậy, văn chương của thời ấy là giành cho giới Nho học. Ngay trong giới Nho học, nhiều người đâu đã biết viết, biết đọc chữ nôm, đúng với chữ “biết” của nó. Thế là, sự “tam sao thất bản” cả về viết và đọc ấy của các bản Truyện Kiều chữ nôm cũng “tam sao thất bản” tiếp sang các bản quốc ngữ. Chưa nói đến sai lỗi về in ấn. Để khắc phục “phần nào” sự “tam sao thất bản” này, các tập thể và cá nhân chuyên đi sâu nghiên cứu về Nguyễn Du nói chung và Truyện Kiều nói riêng, với ý thức “gạn đục khơi trong” nên “Tiếp cận với lời gốc Truyện Kiều”.

           Đây là một việc hết sức khó khăn. Nhưng dựa vào công nghệ thông tin, tìm ra các “từ” sai khác mà tranh luận rộng rãi, phân tích kỹ càng, rồi tổ chức hội thảo khoa học để chọn lấy “từ”, “chữ” và cách đọc hợp lý nhất. Nguyễn Du thừa nhận, số đông thừa nhận là được!

           Đây là công trình nghiên cứu mở của và qua nhiều thế hệ nghiên cứu Nguyễn Du và Truyện Kiều.

          Truyện Kiều đã vượt qua tầm của giới Nho học, để đến được với mọi tầng lớp nhân dân và bạn bè thế giới. Đó là thành công kiệt xuất của Nguyễn Du. Chính nhờ có sự hấp dẫn kỳ lạ của Truyện Kiều mà nó đã nhanh chóng lan tỏa trong dân gian qua truyền miệng. Chính là nhờ tính nhân văn, tính tư tưởng, tính thơ của Truyện Kiều. Phần nữa, không kém phần quan trọng là nhân dân đã biết “gạn đục khơi trong” (lược bỏ cái ít chưa rõ chưa hiểu), vượt lên các mặt hạn chế về lịch sử, giữ và nắm được cơ bản “hồn gốc” (không hẳn là “lời gốc”) của Truyện Kiều. Nhờ vậy, mà Truyện Kiều mới có được sức sống mãnh liệt trong nhân dân và trong bè bạn quốc tế hàng mấy trăm năm nay.

          Ngày nay, đã có quốc ngữ. Trong thời đại thông tin, mỗi người phải tiết kiệm từng phần ngàn, phần vạn giây để tiếp thu nhiều thông tin quan trọng khác, ít có thời gian để tra cứu thì Truyện Kiều phải gắn với tiếng Việt hiện đại, phổ thông, đại chúng và trong sáng. Có thế mới giải tỏa được nỗi trăn trở, băn khoăn, day dứt của Nguyễn Du: 

“Bất tri tam bách dư niên hậu

“Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”

Nhà thơ Xuân Diệu dịch:

“Ba trăm năm nữa mơ màng,

“Thế gian ai kẻ khóc chàng Tố Như?”

          Là con dân Đất Việt, tự hào với truyền thống nhiều mặt của dân tộc mình, phàm những người có học, có lương tri thì không mấy ai lại vô cảm với trăn trở, băn khoăn, day dứt này của Nguyễn Du!

           Nhân kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Nguyễn Du, UNESCO đã công nhận Nguyễn Du là Danh nhân văn hóa thế giới. Nguyễn Du cùng với nhiều danh nhân của đất nước đã góp phần làm rạng rỡ non sông, vẻ vang dân tộc. Vậy, trách nhiệm thiêng liêng của mỗi người Việt Nam chúng ta là làm cho Truyện Kiều sống mãi trong lòng dân tộc, trong thời đại bùng nổ thông tin, trong tiếng Việt hiện đại, như “thịnh thời” đã có của nó.

           Vì vậy, tôi đã “đánh bạo” nghiên cứu khảo dịch: TRUYỆN KIỀU - Nguyễn Du với tiếng Việt hiện đại, phổ thông, đại chúng và trong sáng.

           Đối tượng nghiên cứu là giữ “hồn gốc” Truyện Kiều trong hoàn cảnh lịch sử mới, với mục đích rõ ràng, như trong tiêu đề đã nêu.

           Dựa vào ba tài liệu sau, được chọn làm đối dẫn, để tìm ra sự chưa đồng nhất giữa các bản (về những nét gợn chính). Trên cơ sở đó, tôi cũng có chính kiến của mình.

           1 – Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh, Biên tập Hoàng Thị Đậu, Nhà xuất bản Khoa học xã hội in theo giấy phép số 3/KHXH - 74.

          2 – Truyện Kiều của Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp 1973 do Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú thích.

          3 – Truyện Kiều - Văn bản hướng tới phục nguyên, khảo đính và chú giải của Nguyễn Khắc Bảo do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, in tại Đà Nẵng năm 2009. Số đăng ký KHXB: 90-2009/CXB/11-82/GD. Sử dụng phần quốc ngữ để đối dẫn.

           Ngoài ra tôi còn một số bản Truyện Kiều quốc ngữ, cả bản chép tay, Kiều nôm (photo): Kim Vân Kiều tân truyện (Tiên Điền Lễ tham Nguyễn hầu soạn năm Tự Đức thứ 19 tàng bản (bản khắc gỗ) Liễu văn đường, thiếu 18 tờ = 864 câu) để tham khảo. Bản khắc này ở vào thời đã có quốc ngữ, nhưng chưa rộng. Vì trong bản khắc đã dùng chữ số và câu 120 đã dùng ký hiệu “phút” là một dấu “phẩy”.

           Thứ tự ba tài liệu trên, thay cho tên của từng tài liệu đối dẫn. Như câu 39: “Ngày xuân con én đưa thoi” riêng tài liệu 1 và 3 viết là: “Tiết vừa con én đưa thoi”. Không dùng “Tiết vừa” của tài liệu 1 và 3 thì cột ghi chú viết: “1-2. Tiết vừa (1, 3)”. “1-2” là thứ tự vị trí từ trong câu; “Tiết vừa” là từ cụ thể trong vị trí ấy; “(1, 3)” là sự sai khác này thuộc tài liệu 1 (TĐTK - ĐDA và tài liêu 3 của NKB). Nếu của tôi khác, nhưng của ba tài liệu giống nhau thì ghi “(*)”; và của tôi khác, nhưng của ba tài liệu cũng khác thì sẽ chú thích cả sự khác nhau đó và ký hiệu tài liệu đối dẫn (khi có thể) trong () và cuối ghi (*). Chú thích cả câu thì phần vị trí từ sẽ bỏ.

           Chú thích như vậy, đã giữ nguyên được “từ” “ý” của các bản đối dẫn, người đọc có thể lựa chọn được “từ”, “ý” của bản mà mình cho là hợp lý. Đồng thời, cũng khích lệ mọi người tìm ra các “từ”, “ý” hợp lý hơn. Có thế mới tránh được sự áp đặt vô lý mà tôi đã gặp.

 Bản Khảo dịch Truyện Kiều này có những vấn đề cần lưu ý:

             Phần trình bày: Chữ viết đứng dùng thể hiện nội dung thường; chữ viết nghiêng để dẫn lời, dẫn ý (cả ý nghĩ). Khi dẫn lời trong lời thì viết đứng, in đậm. Chú thích ngay trong cùng một dòng bằng cỡ chữ nhỏ. Phần chú thích hẹp nên viết cô đọng.

 

           Chú thích cũng được trình bày khoa học. Ngoài ra, khi cần, còn dùng để giải thích, giúp người đọc hiểu ngay, bớt phải tìm đến các tài liệu khác.

           Phân đoạn: Số La Mã chỉ Đoạn, số thường chỉ Phân đoạn.

          Nội dung đã được thể hiện trong tiêu đề bản Khảo dịch.

          Dịch sang tiếng Việt hiện đại, đã chú ý đến tính phổ thông, đại chúng và trong sáng. (Theo Từ điển Tiếng Việt – TĐTV. Viện ngôn ngữ học xuất bản năm 2005 tại Đà Nẵng).

 I - VỀ TÍNH PHỔ THÔNG VÀ ĐẠI CHÚNG.

          Một là: chuyển một số từ ít phổ thông sang từ phổ thông cho phù hợp với tiếng Việt hiện đại. (Chung: viết nghiêng, lời dịch; kế, viết đứng trong (), lời bản đối dẫn).

 Thí dụ: 413: “Nhớ từ năm vẫn(hãy) thơ ngây”.

Từ “gửi” thay toàn bộ từ “gởi”. (Không chú thích)

Từ “biển” thay toàn bộ từ “bể”. (Không chú thích)

Từ “ngắn” thay toàn bộ từ “vắn”. (Không chú thích)

Từ điển có nghĩa tương đương, như “hứng”, “hấng”. (Không chú thích)

Các từ “và” “vài”, “đà” “đã” hạn chế viết chệch. (Không chú thích)

Từ “đón”, “mời” thay từ “rước” theo văn cảnh tương ứng.

Từ “nay” thay từ “rây”. 337: Kim rằng: “Nay (Rây) gió mai mưa”,

Và một số từ, như “rày”, “rầy”… có thể thay bằng từ thích hợp khác.

Từ “vội” (534, 632, 1465, 2353), “mau” (1491, 2099) thay từ “kíp” với nghĩa tương ứng.

 

Từ “nghỉ” ngôi thứ ba (cổ) trong các câu 12, 610, 894, 1188:

12: Gia tư ông (nghỉ) cũng thường thường bậc trung (Vương ông);

610: Vì nàng ông (nghỉ) cũng thương thầm xót vay (Chung ông).

Nhưng,

894: Phiá ngoài cũng (nghỉ) đã giục liền ruổi xe. Ẩn ngôi thứ ba (Mã Giám Sinh);

1188: Dơ tuồng hắn (nghỉ) mới kiếm đường tháo lui (Sở Khanh).

Thay xong, sắc thái của bốn câu trên đã nâng lên một tầm cao mới.

 

Từ “vẫn” thay từ “hãy” trong các câu 216, 226, 413, 2042, 2462: Như:

216: Hương thừa dường vẫn (hãy) ra vào đâu đây;

226: Màu hoa lê vẫn (hãy) đầm đìa giọt mưa;

413: “Nhớ từ năm vẫn (hãy) thơ ngây”;

2462: Từ công riêng vẫn (hãy) mười phân nghi hồ (hồ đồ).

Nhưng:

2042: Lạ lùng Kiều tạm (nàng hãy) tìm đường nói quanh. “tạm” hay hơn “vẫn”!

 

Từ “đơn”, “lẻ” thay từ “chiếc” trong các câu 1523, 1526, 1627, 1792, 2231: Như:

1523: Người về đơn (chiếc) bóng năm canh.

1526: Nửa in gối lẻ (chiếc) nửa soi dặm trường.

1627: Kiều từ đơn (chiếc) bóng song the.

1792: Buồng không thương kẻ tháng ngày đơn (chiếc) thân.

2231: Kiều từ đơn (chiếc) bóng song mai.

 

Từ “phía”, “mé” thay cho từ “mái” trong các câu 274, 378, 685, 866, 894, 1124, 2037, 2258, 2774. Như:

274: Dạo quanh chợt thấy phía (mái) sau có nhà.

378: Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mé (mái) tường.

 

Tuy vậy, để đảm bảo âm luật vẫn dùng các từ ít phổ thông, nhưng mọi người đều hiểu đúng. Như (câu 91 – 94):

Đã không kẻ đoái người hoài,

Sẵn đây ta kiếm một vài nén nhang (hương).

Gọi là gặp gỡ giữa đàng (đường),

Họa là người dưới suối vàng biết cho!

           Hai là: Bảo đảm nghĩa tương ứng, đã dùng từ “cha” thay từ “xuân”; từ “mẹ” thay từ “huyên”; từ “cha mẹ” hoặc “mẹ cha” thay từ “xuân huyên” từ “phụ đường” hay “phủ đường” thay từ “xuân đường”…

           Thay từ thuần Việt ít phổ thông bằng từ thuần Việt khác hoặc thay từ Hán khó hiểu bằng từ thuần Việt cho rõ nghĩa hơn. Thay các tích điển khó hiểu bằng sự diễn đạt khác lột tả được nội dung (“hồn”) của tích điển đó hoặc “ý” của tác giả muốn diễn đạt. Như:

 136: Lỏng buông cương ngựa (tay khấu) bước lần dặm băng;

156: Buồng đào nơi tạm (Một nền Đồng Tước) khoá xuân hai Kiều;

208: “Lời vàng ý ngọc (Giá đành tú khẩu) cầm tâm khác thường”;

233: “Cứ trong mộng ấy (mộng triệu) mà suy”;

235: Dạy rằng; “Mộng mị (mộng triệu) cứ đâu”;

238: Chưa xong điều nghĩ đã chào vừng dương (đã đào mạch Tương(1,2), mạch sương(3));

264: Ngọn lau (Ví lô) hiu hắt như màu khơi (khẩy) trêu;

266: Xăm xăm đè nẻo đánh liều (Lam Kiều) lần sang;

280: Có hiên kiểu dáng (Lâm Thúy) nét vàng chưa phai;

306: “Biết đâu chủ cũ (Hợp Phố) mà mong châu về”;

377: Quả ngon (Thì, Thời trân) thức thức xách tay (sẵn bày);

410: Chẳng dòng quý phái (sân ngọc bội) thì làng nho (phường kim) môn;

406: “Xưa nay hiếm thấy tài (Nàng Ban ả Tạ cũng) đâu thế này”;

419: Kim rằng: “Duyên định tại thiên!” (Sinh rằng: “Giải cấu là duyên”);

420: “Xưa nay nhân cũng (định) thắng thiên đã (cũng) nhiều”;

423: Đủ điều tâm sự xa gần (trung khúc ân cần);

439: Bâng khuâng tiên nữ giáng trần (đỉnh Giáp non Thần);

453: Anh tài sánh với thuyền quyên. (Chén hà sánh với quỳnh tương);

459: Rằng: “Khi lá thắm chỉ hồng” (Nàng rằng: “Hồng điệp xích thằng”);

464: “Người người luống những lắng tai ngưỡng vì (Chung Kỳ)”;

505: “Đã cho vào bậc tiết trinh (bố kinh);

507: “Ra tuồng trên cỏ (Bộc) trong dâu”; Từ “cỏ” thay tích sông “Bộc”.

512: “Lứa đôi từng thấy những ngày trái ngang” (Lứa đôi ai dễ đẹp tày Thôi Trương);

603: Để lời hứa biển thề non (thệ hải minh sơn);

613: “Hãy về vay tạm mượn ngoài (phó tạm giam ngoài)”;

651: Định ngày dẫn lễ (nạp thái) vu quy;

838: Mượn màu giống hệt (chiêu tập) như (lại) là của (còn) nguyên. Giả giọt máu khi rách “màng trinh”!

904: “Buộc chân thôi phải đành lòng (xích thằng) nhiệm trao”;

942: “Đêm đêm tấp nập (Hàn thực) ngày ngày một siêu (Nguyên tiêu)”;

1018: “Sâu xa (Túc nhân) âu cũng có trời ở trong”;

1033: Trong lầu  Kiều tạm (Trước lầu Ngưng Bích) khoá xuân;

1119: Đêm thu đã điểm (khắc lậu) canh tàn,

1129: “Trời kia sao (Hóa nhi thật) có nỡ lòng”;

1161: “Mưu sâu (Đà đao) sắp sẵn chước dùng”;

1232: Sớm đưa ong bướm (Tống Ngọc), tối tìm yến anh (Trường Khanh);

1261: “Khi về hỏi biết rằng ai (Liễu Chương Đài)”;

1287: Lạ gì cái thói gió trăng (thanh khí lẽ hằng);

1363: “Dù cho sự đến thế nào” (Đường xa chớ ngại Ngô Lào);

1371: Sẵn đâu lầu trúc ngát hương (Mượn điều trúc viện thừa lương);

1372: Đón (rước)về hãy tạm giấu nàng lầu mai (một nơi);

1452: “Nào hay (Mộc già) hãy thử một thiên trình nghề”; “Mộc già”- Kiều đeo gông.

1458: “Lứa đôi còn có gì cần nhiều hơn” (Châu - Trần còn có Châu - Trần nào hơn);

1480: “Mặn tình cát bụi (cát lũy) nhạt tình tao khang”.

1624: Khuyển Ưng lại chọn một bày du côn (côn quang);

1636: Liệu người ngoài cuộc khác vòng nghĩ sao? (Liệu như cung Quảng ả Hằng nghĩ nao?)

1684: Gọi hồn trị quỷ (Phí phù trí quỷ) cao tay thông huyền;

1685: Trên tiên giới (tam đảo) dưới suối vàng (cửu tuyền); (Tam đảo là ba ngọn núi tiên ở biển Bột-hải: Bồng-lai, Phương-trượng và Doanh-châu; Cửu tuyền là chín suối, suối vàng).

1746: Đầu bù (Dãi dầu) tóc rối da trì quản bao.

1750: Đem lời khuyên nhủ (phương tiện) mở đường hảo (hiếu (1, 2)) sinh.

1988: “So vào với thiếp xem tình (Lan Đình) nào thua”;

2047: Của dâng vật hiến (Rày vâng diện hiến) rành rành;

3104: “Dám đem nhớp nhúa (trần cấu) so vào tiết trinh (bố kinh)”;

3126: “Ai đâu mà nỡ hững hờ bấy nhiêu!”(Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu!); Sát đúng với cảnh Kim Trọng và Kiều hơn!

3200: Ấy là trong mộng hay là thực sinh. (Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh);

3230: Rêu lan mặt đất (trùm kẽ ngạch) cỏ lên mái nhà. Vì lớp trẻ bây giờ đã không hiểu “kẽ ngạch” là gì.

TĐTK – ĐDA, “đề huề”, là “mang xách”, “mang dắt”. Nhưng TĐTV, thì “đề huề” là “đông đủ và vui vẻ, hòa thuận”. Trong trường hợp này, tôi đã dịch “đề huề” theo TĐTK – ĐDA. Như :

137: “Mang theo (đề huề) lưng túi gió trăng”;

278: “Túi đàn cặp sách vội về (đề huề) dọn sang”;

532: “Vừa đưa hài thể tha hương mang về”. (Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề).

Và dịch từ “bàn hoàn” câu

711: “Nỗi riêng riêng những lo toan (bàn hoàn)”;

1760: “Nỗi lòng biết tính ra làm sao đây (luống những bàn hoàn niềm tây)”;

2400: “Cố nhân đã dễ mấy khi thư nhàn (bàn hoàn)” theo nghĩa TĐTV, trùng với nghĩa 1, của TĐTK – ĐDA.

Câu 2749: “Xập xòe (xè) én lượn lầu không (nền không (3))”. “Xập xòe” cánh én bay, tượng hình, hợp TĐTV, còn “xập xè”, tượng thanh, TĐTV không có. Còn “nền không (3)” trái văn cảnh tả trong câu 2746: “Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời”.

II - VỀ TÍNH TRONG SÁNG:

          Giữ sự trong sáng của tiếng Việt, là bảo đảm tính nhất quán (hiểu theo một nghĩa); chặt chẽ, hợp logic, hợp văn cảnh, tránh lặp, tránh rườm …

           Một là, về tính nhất quán, trước hết phải tránh sự nhầm lẫn giữa các nhân vật. Bảo đảm câu đó đứng độc lập cũng không hiểu lầm nhân vật này với nhân vật khác. Giúp người đọc đỡ mất thì giờ tìm hiểu xem đó là ai.

           Truyện Kiều (các bản đối dẫn) có khoảng: 201 từ “nàng”, (trong 197 câu); 19 từ “Tiểu thư”, (trong 18 câu); 72 từ “chàng”, (trong 72 câu); 41 từ “sinh”, (trong 41 câu). Trong 201 từ “nàng”, có liên quan đến 6 nhân vật:

 1 – Kiều, 192 từ (189 câu);

2 – Đạm Tiên, 4 từ (câu 62, 68, 994, 2623);  

3 – Thúy Vân, 2 từ (câu 2878, 3237);

4 – Hoạn Thư, 1 từ (câu 1606);

5 – Nàng Ban, 1 từ (câu 406),

6 – Nàng Oanh, 1 từ (câu 671).

           Để bớt lầm, thay 133 từ “Kiều” (132 câu), 1 từ “ả” (câu 1616), 1 từ “bà” (câu 2000) vào tổng 192 từ “nàng” chỉ Kiều. Còn 57 từ “nàng” chỉ Kiều, vì âm luật hoặc văn cảnh không thay. Ngoài ra, cho rõ hơn, thay từ Kiều vào một số từ khác:

 Câu 227: Kiều (Thưa) rằng: “Chút phận ngây thơ”;

375: “Nhà Kiều (lan) thanh vắng một mình”,

379 - 380: “Cách hoa Kiều (sẽ) dắng tiếng vàng”,

465: Kiều (Thưa) rằng: “Tiện kĩ sá chi!”,

501: Kiều (Thưa) rằng: “Đừng lấy làm chơi”,

536: “Băng mình lên (lẻn) trước Kiều (đài) trang tự tình”,

1715: “Kiều vừa (Hoàng lương) chợt tỉnh hồn mai”,

1022: Kiều (Thưa) rằng: “Ai có muốn đâu thế này”,

1523: “Kiều (Người) về đơn bóng năm canh”,

1524: “Sinh (Kẻ) đi muôn dặm một mình xa xôi”,

1871: “Thư (Người) vào chung gối loan phòng”,

1872: “Kiều (Nàng) ra tựa bóng đèn chong canh dài”,

2195: Kiều (Thưa) rằng: “Lượng cả bao dong”,

2575: Kiều (Thưa) rằng: “Bạc mệnh khúc này”,

2583: Kiều (Thưa) rằng: “Chút phận lạc loài”

3221: “Kim - Kiều tình vẹn hòa hai” (Hai tình vẹn vẽ hòa hai) … Rõ và đẹp.

Trong 19 từ “Tiểu thư” thì 18 từ được thay là Hoạn Thư cho rõ hơn. Riêng câu:

2358: “Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!” không thay.

 

 Trong 73 từ “chàng” liên quan đến 7 nhân vật sau:

 1 – Vương Quan, 5 từ:

145: “Vương Quan(Chàng Vương) quen mặt ra chào”,

2760: “Hỏi Vương Quan với cùng là Thúy Vân”,

2772: “Vương Quan (Chàng Vương) nghe tiếng vội vàng chạy ra”,

2863: “Vương Quan (Chàng Vương) nhớ đến xa gần”,

2950: “Vương thì cải nhậm đến thành châu Dương” (Chàng Vương cũng cải nhậm thành Phú Dương);

2 – Kim, 34 từ thì có 17 từ đã thay trực tiếp bằng từ “Kim” :

(362, 428, 524, 2764, 2766, 2794, 2799, 2880, 2885, 2928, 3030, 3083, 3113, 3127, 3165, 3207, 3217), 4 từ “chàng Kim” (245, 727, 2792, 3012), 1 từ “chàng Kim Trọng” (2740), 2 từ “Kim” gián tiếp

380: “Dưới hoa Kim đã rỡ ràng (đã thấy có chàng) đứng trông”;

3192: “Thong dong Kim (lại) hỏi ngón đàn ngày xưa”),

còn 11 từ “chàng” (Kim) đứng độc lập (520, 756, 774, 2776, 2778, 2840, 2879, 3096, 3105, 3109, 3147);

3 – Sở Khanh, 4 từ:

1059: “Một chàng vừa chạc thanh xuân”,

1062: “Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh”,

1064: “Trông nàng chàng cũng ra tình đuổi đeo (đeo đai)”,

1086: “Phục thư đã thấy tin chàng đến nơi”;  

4 – Thúc Sinh, 27 từ, rõ có 12 câu :

1431: “Nghĩ tình chàng Thúc mà thương”,

1439: “Sụt sùi Sinh (chàng) mới thưa ngay”,

1532: “Cùng Sinh (chàng) kết tóc xe tơ những ngày”,

1573: “Sinh (chàng) về xem ý tứ nhà”,

1590: “Thuận lời chàng Thúc (cũng) nói xuôi đỡ đòn”,

1608: “Nỗichồng (chàng) ở bạc nỗi mình chịu đen”,

1670: “Đường bộ Sinh (chàng) cũng đến nơi bây giờ”,

1800: “Nhớ quê chàng Thúc (lại) tìm đường về quê”,

1842: “Cáo say Thúc (chàng) đã tính bài lảng ra”

1858: “Cúi đầu chàng Thúc (những) gạt thầm giọt tương”,

2008: “Khiến (Mà) chàng Thúc phải ra người bó tay”,

2338: “Mồ hôi lã chã (chàng đổ) như mưa ướt đầm”;

15 từ “chàng” (Thúc Sinh) đứng độc lập (1315, 1320, 1326, 1347, 1358, 1431, 1491, 1498, 1610, 1844, 1862, 1890, 1984, 2328, 2333);  

5 – Bạc Hạnh,  1  từ :

2103:  “Có (Này) chàng Bạc Hạnh cháu nhà”;  

6 – Từ Hải, 1 từ :

2218: “Chàng đi thiếp cũng quyết (một) lòng xin đi”;

7 – Chàng Tiêu, 1 từ :

3126: “Ai đâu mà nỡ (Khách qua đường để) hững hờ bấy nhiêu (chàng Tiêu)!”.

 

Trong 41 từ “sinh” liên quan đến 4 nhân vật:  

1 – Mã Giám Sinh, 4 từ

805: “Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh”,

868: “Giám Sinh (Mã sinh) giục giã vội vàng ra đi”,  

2385: “Tú bà với Mã Giám Sinh”

2889: “Tú bà cùng Mã Giám Sinh”;

 

2 – Bạc Hạnh, 2 từ

2131: “Bạc ta (sinh) quỳ xuống vội vàng”,

2138: “Bạc bèn (sinh) lên trước tìm nơi mọi ngày”;  

3 – Kim, 13 từ đều được thay bằng từ “Kim” (303, 311, 337, 401, 419, 435, 455, 468, 528, 534, 2809, 2820, 2831);  

4 – Thúc Sinh, 22 từ, trực tiếp có 6 câu

1303: “Thúc Sinh quen nết hoang rồi (thói bốc rời)”,

1808: “Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh”,

1889: “Hoạn Thư hỏi lại Thúc Sinh”,

1899: “Liền tay trao lại Thúc Sinh”,

2337: “Thúc Sinh trông mặt bấy giờ”,

2914: “Tức thì đưa thiếp mời chàng Thúc Sinh”;

7 từ “Sinh” (viết hoa) để chỉ Thúc Sinh (1328, 1361, 1394, 1449, 1496, 1967, 1985).

Còn 9 câu

1293: “Thúc Sinh (Sinh càng) một tỉnh mười mê”,

1313: “Thúc Sinh (Sinh càng) tỏ nét càng khen”,

1839: “Thúc Sinh (Sinh càng) như dại như ngây”,

1845: “Thúc Sinh (Sinh càng) nát ruột tan hồn”,

1891: “Thúc Sinh (Sinh càng) rát ruột như bào”,

1863: “Thúc Sinh (Sinh càng) thảm thiết bồi hồi”, 

1568: “Thúc Sinh (Sinh đã) về đến lầu hồng xuống yên”,

1869: “Thúc Sinh (Sinh thì) gan héo ruột dầu”,

1941: “Thúc Sinh mới vội (Thừa cơ Sinh mới) lẻn ra”.

Ngoài ra đã dịch câu

1602: “Thúc Sinh (Vó câu) thẳng ruổi nước non quê người”

và câu 1605: “Thúc Sinh (Roi câu) vừa gióng dặm trường”. Hiệu quả hơn!

Hai là: Chặt chẽ, hợp logic, hợp văn cảnh, tránh lặp, tránh rườm …

Hợp logic: Rộng, như câu 2623 - 2624: “Đạm Tiên nàng nhé có hay”, “Hẹn ta thì đợi dưới này đón ta”. Hẹn khi nào?  Vậy phải dịch câu 994: “Trong mê đã thấy Đạm Tiên bên màn”, mới bảo đảm được sự liên kết logic và trả lời được câu hỏi “Hẹn khi nào?”.

 Hẹp, như các câu:

3: Trải qua mỗi (một) cuộc biển dâu. Trong đời người, đâu chỉ có một cuộc biển dâu? Nên phải dùng “mỗi” mới hợp!

210: Thì giành (treo) giải nhất chi nhường cho ai.

320: Hẳn (Phải) người hôm nọ rõ ràng còn e (chăng nhe). Khẳng định hơn.

387: “Nhà vắng (vắng nhà) được buổi hôm nay”; “Nhà vắng” khác nghĩa với “vắng nhà”.

930: Trên treo thần ảnh (một tượng) trắng đôi lông mày.

1702: Thác rồi (Người đâu) mà lại thấy trên cõi trần? “Thác rồi” mà ở cõi trần mới lạ!

1709: Buồm căng (cao) lèo thẳng đẩy thuyền (cánh suyền).

1715: Kiều vừa (Hoàng lương) chợt tỉnh hồn mai.

1717: Đang còn (Bàng hoàng) dở tỉnh dở say.

1764: Ngày xót xa (Sớm năn nỉ) bóng đêm ôm (ân) hận lòng. “Xót xa” và “ôm hận” hợp và dễ hiểu hơn. “năn nỉ”, van xin gì và tại sao “ân hận”?

2739: Nỗi Kiều tai vạ (nạn) đã đầy; Tai vạ, hợp văn cảnh.

2941: “Định liều (Giấn mình) trong áng can qua”; Định chứ đâu đã giấn?

2973: Cơ duyên tác hợp khéo sao (đâu bỗng lạ sao); Hay hơn!

3024: “Dung quang hơi (chẳng) khác chút (chi) ngày bước ra”; Sát thực tế.

3026: “Mười phần xuân có giảm (gầy) ba bốn phần”; Thế nào là xuân gầy?

3071: “Bây giờ xum họp đã thành (gương vỡ lại lành)”;

3123: “Hoa dầu (tàn) nay trở lại tươi”;

3124: “Mây tan trăng sáng” (Trăng tàn mà lại) hơn mười rằm xưa. Có lý hơn!

3143: Tình nhân gặp lại (lại gặp) tình nhân. “Gặp lại” khác “lại gặp”.

3154: “Vớt hương dưới đất nhặt hoa đã vò (bẻ hoa cuối mùa)”. Được hoa cuối mùa đã quý!

 Hợp văn cảnh, đúng với nghĩa và sắc thái của từ:

Chữ “người” chỉ nhân vật nào đó thì phải viết hoa:

2785: “Gọi là trả chút nghĩa Người,” (Kim Trọng);

2978: “Người còn sao bỗng làm ma khóc Người” (Kiều);

3050: “Lòng nào lại dứt nghĩa Người ra đi”. (Giác Duyên);

           Hoặc: “rầu rầu” (buồn) là chỉ trạng thái tâm lý, còn “dầu dầu”, “dàu dàu” (héo) là chỉ trạng thái hình thể. Nếu dùng “rầu rầu” thay cho “dầu dầu”, “dàu dàu” là chưa chính xác, thiếu sự trong sáng của tiếng Việt, trừ “nhân cách hóa”, “vật cách hóa”. Như:

 2794: Kim càng nghe nói càng dầu (héo) (rầu) như dưa;

607: Họ Chung có vị (kẻ) lại già

2886: Họ Đô có vị (kẻ) lại già thưa lên; Trân trọng!

646: “Vận (Dớp) nhà nhờ lượng người thương dám nài” và

898: “Vận (Dớp) nhà đến nỗi giấn vào tôi ngươi”. “vận hạn” khác “dớp”.

877: “Tiếc (Hổ) sinh ra phận thơ đào”. Chỉ là “tiếc” không là “hổ” thẹn.

1064: Trông nàng chàng cũng ra tình đuổi đeo (đeo đai).

1054: Ầm ào (Ầm ầm) tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Sát với tiếng sóng!

1709: Buồm căng (cao) nèo thẳng đẩy thuyền (cánh suyền); chính xác hơn.

1728: Mắng (Diếc, Dức) rằng: “Những giống bơ thừa quen thân”.

1749: Khi trò chuyện (chè chén) khi thuốc thang. Hợp văn cảnh!

2000: “Nỗi ông vật vã nỗi bà (nàng) thở than”. “bà” thay “nàng” hợp văn cảnh. Vì “ông” đi với “bà” và hoa tì phải gọi Kiều là “bà” mới hợp. Chữ “bà” đã được dùng trong câu này, thì phải sửa câu

1995: “Hoa rằng: Người (Bà) đến đã lâu” để tránh lặp và tránh nhầm Hoạn Thư với Kiều.

2046: “Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư danh (huynh) ”. Giác Duyên là sư nữ dùng chữ “huynh” là không hợp.

2062: Bóng hoa rợp đất ve (vẻ) ngân vang (ngang) trời. Tả “Cửa thiền vừa độ (tiết, cữ) cuối xuân” (câu 2061) vào ban ngày, trời nắng. Dùng “ve ngân” mới hợp với thực tế.

2530: “Bởi nghe lời thiếp ra (đến) cơ sự (hội) này”. Dùng “cơ sự” đúng, còn “cơ hội” thì có nghĩa phản.

2571: Ve kêu (ngâm) vượn khóc (hót) nào tày; Hợp văn cảnh!

2700: Dong (Đóng) thuyền chực bến kết chài giăng sông. TĐTV: “đóng”, “dóng”, “dong” thì “dong” hợp logic, hợp văn cảnh hơn cả.

2714: “Bõ (Mất) công mười mấy năm vừa (thừa) ở đây”. Hợp hơn.

2898: ”Bắt về Vô Tích toan đường  (bẻ) hoa”;

 Có khi phải thay từ, đảo ý, đảo vị trí từ cho rõ nghĩa và giữ âm luật. Như câu :

2956: “Tiện đường cũng lại tìm nàng sau xưa”.

Nếu dịch cùng 2955 - 2957: “Được tin Kim mới rủ Vương”, 

2956: “Tìm Kiều dò hỏi dọc đường nhân cơ”.

2957: “Hàng Châu đến đó bây giờ”, thuận âm luật, rõ và đẹp hơn.

Hoặc như câu 3072: Tình xưa nghĩa cũ phải dành có nơi (Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi);

1391: Quyết ngay: “Phải trọn một bề!” thay Quyết ngay biện bạch một bề(1, 2), Phải sao chịu tốt một bề(3).Đảo ý như thế đã tạo được sự liên kết logic về sau.

 

Tiếp, chặt chẽ, tránh lặp, tránh rườm … :

Khi có thể, đã bỏ tên riêng, tên cụ thể để khỏi rườm và rối. Như:

275: Là nhà của một (Ngô Việt) thương gia;

1722: Chức quan trông rõ (Thiên quan trùng tế) có bài treo trên;

1924: Và còn (Xuân Thu) cắt sẵn hai tên hương trà;

 

Tránh lặp và trong sáng hơn. Như:

2250: Đại (Lửa) binh đâu đã ầm ầm một phương;

2259:Lễ (Giáp) binh kéo đến quanh nhà. Vừa hợp văn cảnh, vừa tránh lặp “giáp binh” trong câu

2252: Đầy sông kinh ngạc chật đường giáp binh.

 

Và các thí dụ cụ thể như:

174: Hải đường rủ (lã (1), lả (2), rã (3)) ngọn đồng lân; Ngọn Hải đường rủ (chờm) sang hàng xóm.

178: Đường gần rộn (Rộn đường gần) với nỗi xa bời bời. Đọc thuận hơn.

362: Kim (Chàng) về phòng sách (viện sách) Kiều (nàng) rời lầu trang;

496: “Họa dần dần bớt! Thế nào được không?” (Họa dần dần bớt chút nào được không?) Đây là Kiều “làm nũng”! Không phải Kim yêu cầu!

1096: Sự mình Kiều (Lạy rồi nàng) mới rỉ trao ân cần; “Lạy” lặp “chào”!

1101: Sở Khanh tủm tỉm (Lắng nghe lẩm nhẩm) gật đầu; Hợp cảnh!

1564: Nào ai còn dám hé răng nửa (nói năng một) lời! Hợp thành ngữ.

1606: Hoạn Thư thừa dịp lên (Xe hương nàng cũng thuận) đường quy ninh; Chỉ “thừa dịp”, không phải “thuận đường”.

1608: Nỗi chồng (chàng) ở bạc nỗi mình chịu đen. “Chồng” rõ và đẹp!

1789: Lần lần tháng đến (lọn, trọn, lụn) ngày qua.

1829: Hoạn Thư (Tiểu thư) trông mặt dò la (hỏi tra). “Hỏi tra”, không hợp với cách nói của Hoạn Thư!

1851: Kiều càng đau đớn tái tê, (Nàng đà tán hoán tê mê).

1867: Lòng riêng khấp khởi (tấp tểnh) mừng thầm. “Tấp tểnh”, sai nghĩa.

1940: Tưởng Thư thật dạ (Tiểu thư phải buổi) vấn an về nhà. Hoạn Thư lập mưu để dò mối quan hệ tình cảm của Thúc Sinh với Kiều. Vì thế đã dịch rõ “ý định” này của Hoạn Thư để tạo mối liên kết logic về sau. Câu 1941: Thúc Sinh mới vội (Thừa cơ sinh mới) lẻn ra.

2080: Ngồi chờ nước đến nhảy thường kịp chi (nên dường còn quê).

2088: Bạc bà cùng (học) với Tú bà đồng môn; Tránh lặp học với đồng môn.

2251: Oai phong khắp mọi nẻo đ­ường, (Ngất trời sát khí mơ màng).

2301: Mấy người bạc ác (phụ bạc) xưa kia;

2347: “Gọi là một (Nghìn vàng gọi) chút lễ thường”. Hợp với người đi tu.

2929: “Xót nàng (thay) chiếc lá bơ vơ”,

tránh lặp “xót” đã phải sửa câu 2932: “Lênh đênh (Xót thân) chìm nổi đau lòng hợp tan”.

3158: “Yêu mà như thế (Yêu nhau thì lại) bằng mười phụ nhau!”.

5: Mỗi người thứ có thứ không (Lạ gì bỉ sắc tư phong); Giữ được hồn gốc.

6: Đời lại (Trời xanh) quen thói má hồng đánh ghen. Trời là Đấng phân xử công minh đâu có đánh ghen với người!

 

III - ĐÔI ĐIỀU SUY TƯ VỀ CÁC BẢN ĐỐI DẪN.

      1 – Có bản câu 39 viết: “Tiết vừa con én đưa thoi”. Vậy, cứ tiết trời có én bay là mùa xuân? Như thế, ngoài mùa xuân ra thì én “đi bằng hai chân” để kiếm sống?

      2 – Từ điển Truyện Kiều (ĐDA) viết: “Sè sè: Hình dung cái gì thấp sát đất”. Trong từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học xuất bản tại Đà Nẵng năm 2005 viết: “Sè sè là vật thể hình khối thấp”.

      Phải khẳng định: “Sè sè” là tượng thanh không phải là tượng hình. Đây là một sự lầm lẫn đáng tiếc.

       Đọc chữ nôm, gần như đọc quốc ngữ viết tắt hoặc không dấu về âm sắc. Chữ nôm có khi còn đọc khác cả vần. Chẳng hạn, chữ “bì” (là da) câu 24 đọc là “bề” (So bề tài sắc lại là phần hơn) thì câu 39 lại đọc là “vừa” (Tiết vừa con én đưa thoi). Thì “sờ sờ” “sè sè” “se se” cũng vậy. Tin rằng, “se se” mới là lời của Nguyễn Du!

       Như thế, câu 57-58 phải đọc là:

Se se nấm đất bên đàng,

Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.

      Vì đó là nấm mồ vừa mới đắp, đất hơi “se se”, cỏ chưa hồi phục hẳn, nên đang còn nửa vàng, nửa xanh.

3 – Các tài liệu đã dẫn viết các câu 77-78:

Sắm sanh nếp tử xe châu,

Vùi nông (Bụi hồng (2, 3)) một nấm mặc dầu cỏ hoa.

         Nếu hiểu “nếp tử” là quan tài bằng gỗ thị, thì ra Đạm Tiên chết thối không ai chôn? May mà có người khách viễn phương “vùi nông” cho? Trường hợp này, phải dùng chữ “tử” là “chết”. Đây không phải “quan tài bằng gỗ thị”, mà là cái lễ theo nếp (phong tục) giành cho người chết.

Câu 71: “Buồng không lặng ngắt như tờ”, đã đủ làm sáng tỏ! Vậy dịch:

Sắm sanh lễ mọn đội đầu,

Bụi hồng một nấm mặc dầu cỏ hoa.

 Và một số suy tư nhỏ như:

          1 – Kiều giữ kỷ vật của Kim Trọng là “Xuyến vàng đôi chiếc khăn là một vuông” (câu 318) và Kim Trọng giữ kỷ vật của Thúy Kiều là “Với kim thoa ấy tức thì đổi trao” (câu 358). Thế mà, có bản đã viết câu 735: “Chiếc thoa với bức tờ bồi ở đây”. Nên viết rõ “xuyến vàng” để thay cho “chiếc vành”: “Xuyến vàng với bức tờ bồi ở đây”.

          2 – Trong các câu 87-88: “Sống làm vợ khắp người ta”, “Hại thay (khéo thay) thác xuống làm ma không chồng”. Thì cách viết: “Sống làm vợ khắp người ta”, “Mà nay thác xuống là ma không chồng” chẳng trong sáng hơn?

          3 – Các câu 2637-2638 các bản viết: “Thổ quan theo vớt vội vàng”, “Thì đã đắm ngọc chìm hương mất rồi”, thì có bản lại viết câu 2638: “Thì đà đắm ngọc chìm hương cho rồi”.

          4 – Các câu 1561-1562 : “Vội vàng xuống lệnh ra uy”, “Đứa thì tát mặt đứa thì vả răng (vả vào mồm)”. Thế mà có bản viết “Đứa thì vả miệng đứa thì bẻ răng”. Hoạn Thư ác thế sao? Chữ “bì” đọc là “vừa”, thì “vả” hợp.

          5 – Câu 2140: “Cũng phường bán thịt cũng tay buôn người”. Liệu từ “thịt” ở đây có nên dùng?

          6 – Câu 458: “Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng”. TĐTK - ĐDA viết: “Lần khân: Đòi hỏi nhiều”. Có bản lại giải thích: “Lần khân: Cợt nhả thân mật quá hóa nhờn…”. Trong Từ điển Tiếng Việt viết: “Lần khân: Kéo dài thời gian để dây dưa” (phù hợp TVHĐ). Tôi đành “bạo gan” dịch theo ý hiểu của mình: “Còn e vội vã ra sàm sỡ chăng”.

          7 – Câu 964, tài liệu (1) viết: “Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi”. “Min” là “ta”, ngôi thứ nhất (cổ), thì phải thay vào từ “chồng” là từ “của” mới đúng, mới hợp. “Thôi đã cướp sống của min (ta) đi rồi!”

          Cuối cùng, là đôi điều suy tư về bản đối dẫn của Nguyễn Khắc Bảo. (Tài liệu 3)

Mong muốn của Tác giả: “Văn bản hướng tới phục nguyên”. Nhưng thực tế, Tác giả đã có việc làm tác dụng ngược.

Câu 1919: “Đưa “chàng” (Kiều) đến trước phật đường”, là phục nguyên?

Tài liệu 3 (NKB), trong chú thích có liên quan đến 507 câu. Riêng của NKB có 439 câu sai khác với các bản đối dẫn (439/3254 = 13,49%). Như:

121: “Ào ào gió lốc rung cây”;

140: “Cỏ pha mùi áo nhuộm non da trời”.

207: “Xem thơ thắc thẻm khen thầm”, “thắc thẻm” TV không dùng.

503: “Vĩ chi một đóa yếu đào”. “Vĩ”, không hợp.

550: “Chưa vui xum họp đã sầu chia bôi”. “bôi” không hợp TĐTV.

792: “Nhị đào đã bẻ cho người tình chung”.

1132: “Vuốt đâu dưới đất cánh đâu trên trời”.          

1509: “Đôi ta chút nghĩa bèo bồng”. “Bèo bồng” TĐTV không có!

1919: “Đưa chàng đến trước phật đường”. Chàng nào?!

          Tài liệu (1, 2), câu 3030: “Đứng trông chàng cũng trở sầu làm tươi” thì tài liệu (3) viết “Đứng trông nàng (?) đã trở sầu làm tươi”.

 

          Tài liệu (1, 2), câu 1064: “Trông nàng chàng cũng ra tình đeo đai”, thì tài liệu (3) viết: “Trông chàng nàng cũng ra tình đeo đai”. Kiều tầm thường vậy sao mà phải mê chàng Sở Khanh? Câu 1063: “Bóng nga thấp thoáng trước mành” và tiếp các câu: 1065 - 1072 chẳng đã rõ Sở Khanh say đắm Kiều? Sự trái ngược (chàng nàng, nàng chàng) này, thì đâu là nguyên tác?

 

          Nguyễn Khắc Bảo viết: “Câu chữ nào của Nguyễn Du, xin trả lại cho Nguyễn Du!” Vậy phải dựa vào đâu để xác định? Nếu có bản gốc thì mới “trả lại” được chữ. Còn lời phải “đoán đọc” thì làm thế nào? Như câu 57, “chờ chờ” “trờ trờ”, “sờ sờ”, “sè sè”, “se se” thì đâu là lời của Nguyễn Du?

 

          Việc thất lạc bản Kiều gốc, như bức tranh vẽ rồng khúc hiện khúc ẩn trong mây. Khúc hiện, không bàn! Khúc ẩn, phải “vẽ” (dịch) đó vẫn là “rồng”, không là “rắn”!

 

          Điều đó, hoàn toàn phụ thuộc vào sự tài giỏi của người dịch! Ngay khi dịch ra quốc ngữ, theo bản gốc, liệu đã dịch đúng “lời” của Nguyễn Du? Như “chờ chờ”, “trờ trờ”, “sờ sờ”, “sè sè”, “se se” đã nêu.

 

          Bởi vậy, không vì “phục nguyên” mà “vội” theo bản “cổ” sai, bỏ qua bản “kim” đúng, theo cái “nhiều”dở, bỏ qua cái “ít” hay; hoặc “chữ gốc” còn, “lời gốc” mất!

 

          Khi dịch Truyện Kiều từ bản nôm ra quốc ngữ, thì “lời” phải phù hợp với tiếng Việt hiện đại, phổ thông, đại chúng và trong sáng. Dịch sao cho Nguyễn Du chấp nhận và số đông chấp nhận là được. “Rồng”, phải là “rồng”! Không vì một “cớ” nào mà biến “rồng” thành “rắn”!

 

          Trong tiếng Việt hiện đại, chỉ cần nắm được “hồn gốc” (không giống hoàn toàn “lời gốc”) của Truyện Kiều! Đọc hiểu ngay và hay là đủ!

 

          Chỉ có trên quan điểm ấy mới giải tỏa được nỗi trăn trở, băn khoăn, day dứt của Nguyễn Du đã nêu trên. Đó là định hướng, là mục tiêu!

          Bản khảo dịch này, là một sự mở đầu của cuộc “cách mạng” dịch Truyện Kiều sang tiếng Việt hiện đại, phổ thông, đại chúng và trong sáng. Hy vọng, sẽ là cơ sở ban đầu cho các thế hệ kế tiếp hoàn thiện việc dịch Truyện Kiều sang tiếng Việt hiện đại. Trước mắt, dịch ra tiếng nước ngoài cũng sẽ thuận lợi hơn.

          Trên đây tôi cũng đã mạnh dạn bày tỏ một số suy tư của mình. Mong bạn đọc lưu tâm tham góp!

          Những gì đã bày tỏ trên, có liên quan đến 1376 câu, trên 3254 câu (42,29%). Trong đó, chính kiến của tôi khác với ba tài liệu đối dẫn (*), có liên quan đến 995 câu, trên 3254 câu (30,58%).

          Là người mở lối, bản khảo dịch đầu tiên này, chắc chắn còn có nhiều thiếu sót! Nhưng với sự tham góp của mọi người, bản khảo dịch sẽ ngày một hoàn thiện.

          Hy vọng, bản khảo dịch Truyện Kiều này, Nguyễn Du sống lại cũng phải thốt lên: “Hậu sinh khả úy!”

          Nếu được như vậy, thì tôi cũng có được chút nghĩa “đèo bòng” với Nguyễn Du. Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng Một năm Ất Dậu, (03-01-1766, theo “Họ Nguyễn Tiên Điền” qua gia phả, sử sách và tư liệu điền dã do Phạm Quang Ái sưu tầm và biên soạn, xuất bản 2011). Còn tôi, cũng vào ngày 23 tháng Một năm Quí Dậu, (Khai 06-01-1934) đúng sau ngày sinh của Nguyễn Du trọn 14 Giáp, 168 năm, thì tôi cũng cất tiếng khóc chào đời!

          Việc khảo dịch Truyện Kiều này là ngẫu nhiên hay là sự đưa đẩy của số phận? Dù thế nào, cùng với mọi người, tôi cũng đã góp được một phần nhỏ của mình trong việc giải tỏa nỗi trăn trở, băn khoăn, day dứt trên của Nguyễn Du.

Hữu dư tam bách niên dĩ hậu,

Thiên hạ văn đàn thịnh Tố Như.

Dịch:

Ba trăm năm hẳn có thừa,

Thế gian vẫn đọc say sưa Truyện Kiều.

Người khảo dịch KS Đỗ Minh Xuân

==============================================
 Và bài "kêu oan" của Thế Anh:
 
SAO ÔNG VŨ KHIÊU LẠI NỐI GIÁO CHO VIỆC SỬA TRUYỆN KIỀU VÔ LỐI?
Tác giả: Thế Anh

      Có một việc mà giới văn nghệ sỹ, cũng như những người yêu văn thơ bức xúc, đó là truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du gần đây đã bị xâm hại, mà người khuyến khích cho việc làm hỗn hào này, tiếc thay lại chính là ông Vũ Khiêu – giáo sư, Anh hùng lao động, nguyên Phó viện trưởng Viện khoa học xã hội Việt Nam, vẫn được tiếng (hão?) là nhà văn hóa.

Xin đừng dung tục và hạ thấp văn chương Truyện Kiều
 
Trong cuộc hội thảo về Dòng chảy văn hóa xứ Nghệ từ Truyện Kiều đến phong trào Thơ Mới tổ chức tại Khu di tích Nguyễn Du (Nghi Xuân – Hà Tĩnh), mỗi đại biểu tham dự được tặng một cuốn sách (bản photo) có nhan đề Truyện Kiều Nguyễn Du với tiếng Việt hiện đại, phổ thông, đại chúng và trong sáng, do KS. Đỗ Minh Xuân khảo dịch – Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin in năm 2012 và có lời Đề tựa của GS. Vũ Khiêu.
 
“Với một tinh thần khoa học rất nghiêm túc, ông tìm lại hầu hết các bản Truyện Kiều từ trước đến nay, so sánh các dị bản, ông tìm đọc hầu hết các bài đã bình luận, phân tích tác phẩm và tác giả Truyện Kiều. Từ đó, ông đã có ý tưởng lớn là làm thế nào để phổ cập hóa Truyện Kiều cho quảng đại công chúng, ông gạt bỏ những câu chữ khó hiểu từ tiếng Hán để thay bằng ngôn ngữ thuần Việt trong Truyện Kiều… Tôi hoan nghênh công phu nghiên cứu của ông Đỗ Minh Xuân và tin rằng cuốn sách này của ông là một đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu Truyện Kiều…
 
Không hiểu cuốn sách này đã được Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin in và phát hành chưa, vì chúng tôi không thấy xuất hiện trên thị trường sách ở Hà Nội, vả lại cách bố cục của cuốn sách cũng có những nét đặc biệt khác với thông lệ của một ấn phẩm văn chương, chẳng hạn trong lời mở đầu cuốn sách tác giả đã có lời Kính cáo cụ Nguyễn Du và xin phép cụ để xuất bản bản khảo dịch Truyện Kiều này vì ông cho rằng người đọc Truyện Kiều ngày nay, không còn thịnh như trước đây do rào cản về điển tích, từ Hán, từ cổ, từ địa phương… Tiếp theo là Lời nói đầu (16 trang) và cuối mỗi trang đều có một câu Lời nói đầu, Truyện Kiều với tiếng Việt hiện đại (Đánh dấu tuổi 80, bản in 15-11-2012). Sau đó là văn bản Truyện Kiều thì lại đánh số trang bằng tiếng Pháp (từ page 1 đến page 109 và cuối cùng là lời Tự bạch cho Truyện Kiều 15-11-2012 (16 trang) nhưng thực chất là bản tự thuật của tác giả theo kiểu liệt kê trong gia phả và kể lể công lao thành tích trong quá trình hoạt động Cách mạng mà chẳng có gì liên quan đến vấn đề nghiên cứu Truyện Kiều cả.
 
Trong cuốn sách tác giả có nhắc đi nhắc lại hai lần Nhân kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Nguyễn Du, UNESCO đã công nhận Nguyễn Du là Danh nhân văn hóa thế giới. Điều này không đúng, Nguyễn Du chỉ mới được Hội đồng hòa bình thế giới quyết định kỷ niệm 200 năm (1965) ngày sinh của ông cùng với 8 danh nhân văn hóa khác của thế giới trong đó có nhà thơ La Mã Horace, nhà thơ Ý Dante, nhà bác học và là nhà thơ Nga Lômônôxôp… chứ chưa được UNESCO công nhận.
 
Khái niệm khảo dịch của tác giả cuốn sách cũng không chính xác, vì thực chất ông đâu có dịch mà chỉ chữa lại văn của Nguyễn Du một cách vụng về. Chẳng hạn ông đã thay chữ nghĩ trong 4 câu Kiều bằng những chữ khác:
 
Câu 12: Gia tư ông cũng thường thường bậc trung
Câu 610: Vì nàng ông cũng thương thầm xót vay
Câu 894: Phía ngoài cũng đã giục liền ruổi xe
Câu 1182: Dơ tuồng hắn mới kiếm đường tháo lui

Ông cho rằng những chữ vừa thay đã làm cho 4 câu thơ trên được nâng lên một tầm cao mới (!?)

Câu 2042: Lạ lùng nàng vẫn tìm đường nói quanh được chữa lại là Lạ lùng Kiều tạm tìm đường nói quanh rồi tự khen chữ “tạm” của mình hay hơn chữ “vẫn” của Nguyễn Du (!)
Ông còn dùng từ đơn và lẻ thay cho từ chiếc trong các câu sau đây:
 
Câu 1523: Người về chiếc bóng năm canh (Nguyễn Du)
Người về đơn bóng năm canh (Đỗ Minh Xuân)
 
Câu 1526: Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường (Nguyễn Du)
Nửa in gối lẻ nửa soi dặm trường (Đỗ Minh Xuân)
 
Câu 1627: Kiều từ chiếc bóng song the (Nguyễn Du)
Kiều từ đơn bóng song the (Đỗ Minh Xuân)
 
Câu 1792: Buồng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân (Nguyễn Du)
Buồng không thương kẻ tháng ngày đơn thân (Đỗ Minh Xuân)
 
Câu 2231: Kiều từ chiếc bóng song mai (Nguyễn Du)
Kiều từ đơn bóng song mai (Đỗ Minh Xuân)
 
Trong Truyện Kiều Nguyễn Du đã dùng nhiều từ Hán – Việt và điển cố, tác giả cuốn sách đã mạnh tay (nếu không nói là liều lĩnh) gạt bỏ và thay vào đó những từ mà ông cho là rõ nghĩa hơn và lột tả được nội dung điển tích và ý của Nguyễn Du. Chẳng hạn cha thay cho xuân, mẹ thay cho huyên, cha mẹ thay cho xuân huyên, phụ đường hay phủ đường (!) thay cho xuân đường.
 
Để bạn đọc có thể hình dung được một cách cụ thể hơn, chúng tôi xin nêu lên sau đây một số trường hợp (trong gần 1000 đơn vị từ) mà tác giả đã chữa lại văn của cụ Nguyễn Du:
 
Câu Chữ của Nguyễn Du / Chữ thay thế của ông Đỗ Minh Xuân
Câu 5: Lạ gì bỉ sắc tư phong / Mõi người thứ có thứ không
Câu 136: Tay khấu / cương ngựa
Câu 156: Một nền Đồng Tước / Buồng đào nơi tạm
Câu 208:  Giá đành tú khẩu / Lời vàng ý ngọc
Câu 233:  mộng triệu / mộng ấy
Câu 235: mộng triệu / mộng mị
Câu 238: đã dào mạch Tương / đã chào vừng dương
Câu 266: Lam Kiều / đánh liều
Câu 280: Lãm Thúy / kiểu dáng
Câu 306: Hợp Phố / chủ cũ
Câu 377: (thì) thời trân quả ngon /sẵn bày xách tay
Thời trân thức thức sẵn bày / Quả ngon thức thức xách tay (!)
Câu 406: Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế này / Xưa nay hiếm thấy tài đâu thế này
Câu 439: đỉnh Giáp, non Thần / tiên nữ giáng trần
Câu 507: (trên) Bộc / (trên) cỏ
Câu 512: Lứa đôi ai dễ đẹp tày Thôi – Trương / Lứa đôi từng thấy những ngày trái ngang
Câu 458: Châu – Trần còn có Châu – Trần nào hơn / Lứa đôi còn có gì cần nhiều hơn
Câu 1638: Liệu như cung Quảng ả Hằng nghĩ nao? / Liệu người ngoài cuộc khác vòng nghĩ sao?
Câu 1988: Thiếp Lan Đình / thiếp xem tình
Câu 3200: Ấy là Hồ Điệp hay là Trang Sinh / Ấy là trong mộng hay là thực sinh
v.v…và v.v…
 
Trên đây chúng tôi chỉ mới nêu lên một số trường hợp làm dẫn chứng, còn thực tế trên cuốn sách ông Đỗ Minh Xuân đã sửa chữa thay thế khoảng 1/3 chữ nghĩa của Truyện Kiều mà ông cho là rườm rà, trùng lặp, không hay, thiếu logic, trái văn cảnh… Ông còn bắt bẻ cụ Nguyễn Du trong nhiều trường hợp chẳng hạn:
 
Khi Cụ viết: Trải qua một cuộc bể dâu (câu 3). Ông phân tích: Trong đời người, đâu chỉ có một cuộc bể dâu? Phải dùng “mỗi” mới hợp.
 
Câu 935: cụ Nguyễn Du viết: Trên treo một tượng trắng đôi lông mày, ông cho rằng tượng không treo được và phải viết Trên treo thần ảnh trắng đôi lông mày.
 
Câu 2973: Cơ duyên đâu bỗng lạ sao, ông chữa lại là Cơ duyên tác hợp khéo sao và tự cho là hay hơn (!)
 
Câu 2062: Bóng hoa rợp đất, vẻ ngân ngang trời, ông chữa lại: Bóng hoa rợp đất, ve ngân ngang trời mới hợp với thực tế v.v…và v.v…
Về vấn đề phân tích và lập luận của tác giả đôi khi cũng có thể làm đề tài mua vui, chẳng hạn câu 39: Tiết vừa con én đưa thoi, ông hỏi vặn lại chẳng lẽ cứ tiết trời có én bay là mùa xuân? Như thế, ngoài mùa xuân ra thì én đi bằng hai chân để kiếm sống à?
 
Câu 57 – 58: theo ông Xuân phải đọc là:
Se se (chứ không phải sè sè) nấm đất bên đường
Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh
Ông phân tích đó là nấm mồ vừa mới đắp, đất hơi se se, cỏ chưa hồi phục hẳn, nên đang còn nửa vàng nửa xanh.
 
Câu 77: Sắm sanh nếp tử xe châu, ông cho rằng đây không phải là quan tài bằng gỗ thị như nhiều người giải thích, mà chữ “tử “ ở đây phải hiểu là “chết“ mới đúng, tức là nếp dành cho người chết.
 
Có lẽ không cần phải dẫn chứng và bình luận gì thêm, bạn đọc cũng đã hình dung được công trình khảo dịch Truyện Kiều này của ông Đỗ Minh Xuân và liệu có phải như ông khẳng định cách làm này của ông là một cuộc cách mạng (đại ngôn vô lối) mở đầu cho việc dịch Truyện Kiều sang tiếng Việt hiện đại, phổ thông, đại chúng, trong sáng và nó sẽ là cơ sở ban đầu cho các thế hệ kế tiếp hoàn thiện cho việc dịch Truyện Kiều sang tiếng Việt hiện đại hay không? Ông tin rằng việc dịch Truyện Kiều ra tiếng nước ngoài cũng sẽ thuận lợi hơn và ông tự thưởng cho mình một lời khen của cụ Tố Như cũng đầy vẻ hài hước: “… Nguyễn Du có sống lại cũng phải thốt lên hậu sinh khả úy” (nguyên văn lời của ông viết ở trang 15).
 
Riêng suy nghĩ của chúng tôi thì văn chương của Nguyễn Du nói chung và tiêu biểu là kiệt tác Truyện Kiều đã được nhân dân ta thưởng thức và ngưỡng mộ qua nhiều thế hệ, từ những bậc thức giả đến các tầng lớp bình dân kể cả những người không biết chữ và bạn bè quốc tế cũng dành cho nhà thơ những tình cảm tốt đẹp để ca ngợi và tôn vinh. Không hiểu với tác phẩm khảo dịch này có làm cho Truyện Kiều của Nguyễn Du được nâng lên một tầm cao mới như tác giả khẳng định hay không, hay chỉ là những câu vần vè ngây ngô làm cho văn chương Truyện Kiều bị hạ thấp và dung tục hóa đến mức khôi hài
 

Thế Anh - Đôi điều nhắn nhủ ông Vũ Khiêu:
 
Người xưa nói “mua danh ba vạn, bán danh ba đồng” để thấy con người ta phấn đấu để có được cái danh khó lắm thay, nhưng để mất danh thì dễ lắm thay. Ông đã có được chút danh (dù hiện nay tôi biết rất nhiều người chửi ông là hữu danh vô thực, kiến thức lỗ mỗ, chỉ giỏi xào xáo), vậy thì càng nên gắng giữ gìn. Tôi thấy dạo này ông làm nhiều việc ảnh hưởng đến danh quá, như cái vụ “giáng bút” ở Bình Đà (tìm đọc bài: “Ô hô, giáo sư AHLĐ Vũ Khiêu từ cõi tiên về giáng bút” trên blog Nguyễn Xuân Diện thì rõ). Chữ nghĩa viết lời bạt in vào sách nó như văn bia ấy. Xưa cụ Nguyễn Khuyến từng cảnh báo: “Văn bia không đốt như văn tế”, vì thế khi viết lách cái gì phải hết sức cẩn trọng. Chê sai còn xin lỗi, đính chính được, chứ khen sai thì biết làm thế nào mà sửa đây. Ông hãy tìm đọc truyện ngắn “Bút máu” của nhà văn Vũ Hạnh để mà thấy cái việc cầm bút phải như thế nào.

 

Ý kiến bạn đọc:
TRẦN VĂN THUYÊN

Ô hô ông Đỗ Minh Xuân

Văn thơ như thế xách quần thâm thôi

Đọc qua đã bốc mùi hôi

Sửa thơ như thế tội này tru di...

Còn ông cái Mã Giang Lân

Thơ phú như thế làm bần tiếng ta...

Nói ra thì bảo kêu ca

Để lòng thì cứ xót xa nỗi lòng

THẬT BUỒN CHO CÁC NHÀ VH...


Để gửi ý kiến nhấp vào đây