Trả lời câu hỏi của bạn: Hoàng Phương (địa chỉ Email: haphuongub@yahoo.com) hỏi:
Xin cho hỏi về một người mới mất. Khi nào thì người đó hết khó. ( khó ) tức là gì? Xin được giải thích. Còn người mất đã được thiêu và chôn chặt. Thì khi nào mới được cho là mãn tang. Xin được giải thích giùm. Chân thành cảm ơn.
Phlanhoa hồi đáp
Bạn Hoàng Phương thân mến, hình như bạn đang sống ở nước ngoài chăng?
Tôi xin trả lời câu hỏi của bạn như sau:
Hết khó, hay mãn tang, tức hết thời gian chịu tang. Có lẽ do tập tục nước ta, trong thời gian chịu tang thì không được có các hành động như tham dự đám cưới, đến nơi hội hè đình đám vui nhộn, tết không được đi chúc tết nhà người khác, không được nói cười vô tư. Thậm chí khi xưa hủ tục phong kiến con trai trưởng còn không được mang dép mà phải đi chân trần, cuộc sống phải thể hiện hà khắc buồn thảm mới là báo hiếu, nên gọi là khó.
Thời gian chịu tang như sau:
- Con trai và con dâu chịu tang cha mẹ 3 năm, đội khăn trắng thả đuôi
- Cháu nội và cháu nội dâu chịu tang ông bà 2 năm, đội khăn trắng thả đuôi
- Cháu ngoại chịu tang ông bà 1 năm, đội khăn trắng vần tròn
- Chắt nội và dâu chịu tang cố (cụ) 1 năm, đội khăn vàng vấn tròn
- Chút, chít nội và dâu chịu tang kị (can) 1 năm, đội khăn đỏ vấn tròn
- Chắt, chút, chít bên ngoại chỉ đội khăn tang đến hết đưa tang thì thôi.
Để hiểu biết sau xa hơn về tập tục tang ma của người Việt, tôi mời bạn tham khảo chương IX, X, XI – sách Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính, là cuốn sách nói về tập tục Việt Nam cụ thể nhất hiện nay. Nội dung như dưới đây:
Việt Nam phong tục – Phan Kế Bính
Chương IX: TANG MA
Khi mới mất: Nhà nào có ông già bà cả gần mất, con cái vực đến chỗ chính tẩm, hỏi han xem người trối trăng những gì, rồi đặt tên hiệu cho người biết, dùng nước trầm hương lau sạch sẽ, thay đổi quần áo tươm tất. Khi tắt hơi rồi, lấy chiếc đũa để ngang hàm, bỏ một vốc gạo và 3 đồng tiền vào miệng. Nhà phú quí thì dùng ba miếng vàng sống, chín hạt châu trai, gọi là ngậm hàm (1). Đoạn trải chiếu xuống đất, đưa người xuống một lát (lấy nghĩa người ta bởi đất sinh ra thì khi chết lại về với đất) rồi lại đem lên giường. Người con cầm cái áo của người mới mất thay, trèo lên mái nhà hú vía ba tiếng, có ý con mong cho người sống lại rồi lấy áo phủ lên thây.
Khâm liệm, nhập quan: Nhà giàu dùng vóc liễu, tơ lụa, nhà thường dùng vải trắng, may làm đại liệm, tiểu liệm (đại liệm: một mảnh dọc năm mảnh ngang, tiều liệm: một mảnh dọc ba mảnh ngang) để khâm liệm, rồi thì nhập quan, bỏ vào sàng. Tục ta, phần nhiều người tin theo thầy phù thủy, trong quan tài thường có mảnh ván đục hình sao Bắc đẩu thất tinh. Trước khi nhập quan, phải chọn giờ tránh tuổi (2) rồi dùng bùa nọ bùa kia dán ở trong, ngoài quan tài. Có người cho là chết phải giờ xấu thì lại bỏ cỗ bài tổ tôm, hoặc quyển lịch Tàu, hoặc quyển lịch Ta ( nhất là quyển lịch có dấu bộ đóng thì càng hay), hoặc tàu lá gồi, để trấn áp ma quỉ. Đâu đấy sơn gắn quan tài cho kỹ càng, đặt chính gian giữa, hoặc nhà còn người sống lớn hơn thì đặt gian cạnh. Nhà nào muốn để lâu một vài tháng thì quàn lại để trong nhà hoặc đem ra vườn phủ cát lên.
Mấy hôm mới nhập quan (3), con cháu còn được phép cưới, gọi là cưới chạy tang.
Thành phục: Được vài ba hôm, công việc lo liệu đâu đấy thì làm lễ Thành phục. Trước bàn thờ bày linh sàng, linh tọa, đặt hồn bạch (hồn bạch là lấy lụa đắp vào khi người gần mất, rồi kết lại có đầu, có tay có chân như hình người). Ở ngoài thì bày hương án bàn độc và đồ cúng cấp. Con cháu mặc đồ tang phục, xõa tóc, theo thứ tự đứng sắp hàng ra sàn mà khóc lóc. Nhà phú quí có tế, nhà thường dân hay mượn thầy phù thủy cúng đỡ cho
Tang phục: Con trai, con gái, con dâu đội khăn xô (vải mộc trắng), mũ chuối, mặc áo xô, ngoài quàng sợ dây chuối, thắt dây lưng bằng chạc. Cháu nội thì đội mũ mấn, khăn trắng, mặc áo thụng trắng, thân thuộc cũng mặc đồ trắng cả.
Chiêu tịch diện: Tế thành phục rồi thì mỗi ngày buổi sớm, buổi chiều cúng cơm, gọi là chiêu tịch diện. Lễ chiêu tịch diện như thời khi người còn sống. Buổi sáng con cháu bưng chậu nước, khăn mặt, cau trầu cho vào chỗ giường nằm, khóc ba tiếng rồi rước hồn bạch ra chỗ bàn tọa, mới dâng cúng. Buổi tối dâng cúng xong, lại rước vào chỗ linh sàng, buông màn, đắp chăn rồi mới ra. Lễ ấy, nhà đại gia mới dung, nhà thường thì chỉ cúng ở chỗ linh tọa mà thôi.
Thổi kèn giải: Trong những đêm ma còn quàn ở nhà, có nhà mỗi tối mời phường bát ẩm gảy đàn thồi sáo và có phường tang nhạc thổi kèn đánh trống. Con cháu, mỗi người thổi một câu khóc ông bà cha mẹ, rồi thưởng tiền cho bọn ấy. Nhà nào không có kèn giải thì không vui.
Chuyển cữu: Trước hôm cất ma, hoặc ban đêm hoặc buổi sớm, làm lễ chuyển cữu, nghĩa là xoay quan tài. Nguyên lễ, có rước quan tài sang chầu tổ miếu, nhưng nhà chật hẹp không mấy người rước quan tài, chỉ có rước hồn bạch, nhà đại gia thì phong áo mão đại trào rước sang mà thôi. Còn những nhà không có nhà thờ tổ riêng thì chỉ xoay quan tài đi một vòng rồi lại đặt đấy.
Phát dẫn: Hôm cất ma, gọi là ngày phát dẫn. Hôm ấy con cháu, an hem, người quen biết đều đi đưa cả
Cha mất thì các con trai chống gậy tre, mẹ mất thì chống gậy võng, con trai nào mất trước đi rồi thì con trai của người ấy chông gậy thay cha, hoặc nhà nào đi vắng thì treo cái gậy ấy ở đầu đòn đại dư. Nếu không có con trai thì ai vào ăn thừa tự phải chống gậy. Con gái, con dâu thì lăn đường mới là con có hiếu. Người thân thích thì một vài người đi gần linh cữu gọi là hộ tang. Còn người đi đưa hết thảy gọi là tống tang
Nghi trượng đi đường: Trước hết có hai thần phương tướng làm bằng giấy, hình dung dữ tợn, cầm đồ qua mâu đi dẫn đạo. Thứ đến thể kỳ, có hai người khiêng một bức hoành vải trắng đề bốn chữ ( ví dụ Cha mất thì đề Hổ sơn vân ám, mẹ mất thì Dĩ linh vạn mê v.v). Đôi bên treo đôi đèn lồng đề chức tước húy, hiệu thụy của người mất.
Thứ đến minh tinh: Minh tinh làm bằng vải lụa hoặc bằng vóc nhiễu đỏ, dài độ 7, 8 thước, lấy phấn trắng đề chức tước, họ tên, thụy hiệu người mất treo vào một cán tre, hoặc làm như hình cái trụ để vào bàn độ cho người khiêng. Đề lòng minh tinh thường tình theo bốn chữ “ Quỉ, Khốc, Linh, Thính” viết dài ngắn thế nào mặc lòng, nhưng chữ cuối cùng không được chạm vào chữ Quỉ, chữ Khốc, e chạm phải hai chữ đó thì độc chăng
Kế đó đến hương án (bàn hương), bày giá hương, độc bình, đồ tam sự (hai cây nến và một bát hương), mâm ngũ quả;
Kế đến thực án bày tam sinh, hoặc lợn quay, bánh trái.
Rồi đến linh xa rước hồn bạch, có phường tài tử bát âm đi dàn mặt và có đủ đồ binh khí, nào đèn giấy, nào biển đan triệu, đàn ông để hai chữ trung tín, đàn bà để hai chữ trinh tiết. Nào trướng, nào câu đối, liễn của con cháu và của người phúng viếng. Kế nữa thì cờ công bố, đèn chữ á, nhà đại gia dùng đủ đồ nghi trượng sứ thần, có kiệu phong áo ão đại trào, có cờ, có tán, đồ lộ bộ, nến sáp hai dãy, có chiêng có trống, có võng có lọng có trống cà rung. Nhà thường thì chỉ có phường kèn trống thổi khúc nam thương mà thôi.
Sau cùng thì là đại dư rước linh cữu: trên linh cữu che mái nhà táng giấy. Nhà phú quí thì làm mái nhà tang rất hoa mỹ, có cái tốn tới ba bốn chục bạc, có trống tiêu cổ hoặc lệnh dẫn linh cữu đi
Con cháu tống tang đi theo linh cữu có bạch mộc (ta thường gọi là phương dụ) để che cho khỏi mưa nắng
Ở về các vùng nhà quê, thì chỉ dùng mấy thư minh tinh, nhà tang, võng chủ đèn biển sơ sài mà thôi, không mấy nhà trang hoàng như cách phố xá, nhưng lại có các vải cẩm phướn đi dưỡng dực đôi bên, tụng kinh niệm Phật gọi là đi hộ phúc, có nhà Sư ngồi xe, bận áo cà sa, tay gõ mõ, miệng tụng kinh để nguyện cầu cho linh hồn được về Tây phương cực lạc thế giới, các người qui Phật mà mất thì các sãi lại đội cầu bát nhã để làm đường cho linh hồn đi sang Tây phương. Trong khi đi đường rắc vàng thỏi, vàng giấy, là tục cho rằng có quỉ phụ vào quan tài, rắc vàng để tống quỉ, kẻo quan tài nặng khó đi.
Nhà trạm: Khi đi đường, nhà phú quí có trạm trung đỗ, để đình cữu mà diện tế. Nhà trạm lợp bằng lá hoặc bằng cót, căng vải kết hoa treo đèn, treo biển, bài trí lịch sự. Đến chỗ hạ huyệt lại có một trạm tế hạ huyệt. Lúc tế trạm, tục thường kén mời người nào có chức tước danh giá đề chủ và mượn một người nữa phủng chủ. Lúc tế thì người phủng thần chủ phủng ra đặt lên trên án, người đề chủ cầm bút chấm một nét trên đầu chữ chủ và sổ một nét. Để xong thì nhà chủ phải hậu ta lễ vật cho người đề chủ, có khi bao nhiêu đồ tế tự trong rạp phải biếu cả
Hạ huyệt: Lúc hạ huyệt có tế thổ thần nơi đất đó. Có ông thầy địa lý phân kim gióng hướng, đợi đến giờ tốt ( giờ hoàng đạo) thì hạ huyệt. Ở nhà quê thì các vãi chờ khi lấp đất xong, mỗi người cầm một nắm hương, tụng kinh, niệm Phật đi chung quanh mộ rồi mỗi người cầm một hòn đất ném vào mộ gọi là dong nhan. Huyệt thường nhờ thầy địa lý tìm đất trước, nhà đại gia thì làm sẵn sinh phần.
Khóc lạy: Từ lúc ma còn để trong nhà thì con cháu và khách khứa viếng chỉ lạy hai lạy, nghĩa là còn coi như người sống. Đến lúc hạ huyệt rồi thì mới lạy bốn lạy, nghĩa là đến lúc đó thì mới lấy đạo thờ người chết mà thờ. Trong lúc đưa ma, con cái lúc nào cũng phải khóc. Khi có khách vào phúng viếng, thường có ô hô ba tiếng (hoặc tình không thân thì lễ không), con trai con rể đều phải khóc mà đáp lễ lại, nhưng chỉ đáp lại một nửa mà thôi, nghĩa là khách lạy hai thì mình đáp một, khách lạy bốn thì mình đáp hai
Ngu tế: An tang rồi trở về nhà lại tế, gọi là Ngu tế. Ngày hôm trước gọi là sơ ngu, ngày thứ hai gọi là tái ngu, ngày thứ ba gọi là tam ngu. Ngu nghĩa là yên. Vì người mất nên xương thịt mới chon dưới đất, hồn phách chưa được yên, cho nên tế ba lần để cho yên hồn phách người mất
Nhà phú qui mới có Ngu tế, nhà thường thì trong ba ngày chỉ có họ hàng thân thuộc đến phúng viếng mà thôi. Ở nhà quê thì có tư vãn hàng giáp đến trợ tế, ăn uống tốn kém
Viếng mộ, đắp mộ: Trong ba ngày sau khi mới chon, mỗi buổi chiều con cái đem cơi trầu đến chỗ mả khóc lóc gọi là viếng mộ. Tục ta thường để đến hôm ba ngày mới đắp mộ, sửa sang cho tốt đẹp, hoặc làm nhà mộ. Thường dân thì hay mượn thầy phù thủy yểm bùa ở mả, hoặc dùng gà trắng, hoặc dùng chó đen để cúng thổ thần, hoặc dùng lươn, cá chép, ốc, mỏ quạ để yểm bùa, cho rằng làm như thế thì trừ được hung thần kẻo nó quấy phá người mới chết. Từ đó trở đi thì ngày nào cũng cúng cơm hai bữa và khóc lóc.
Chung thất: Bốn mươi chín ngày gọi là tuần chung thất. Tuần này có tế, có nhà đem vào chùa làm chay, nhờ nhà sư tụng kinh sám hối ba đêm hoặc bảy đêm ngày, để cho vong hồn được siêu thăng tịnh độ.
Tốt khốc: Một trăm ngày là tuần tốt khốc, nghĩa là đến bây giờ mới thôi khóc, tuần này tế lễ một tiệc rồi thì không cúng hai buổi nữa
Tiểu tường: Được một năm thì giỗ đầu gọi là lễ tiểu tường. Bấy giờ mới trừ bỏ hung phục như đồ sô gai, gậy mũ v.v Nhưng vẫn còn mặc đeo khăn tang cho hết ba năm.
Đại tường: Ba năm giỗ hết (tức hết khó) gọi là đại tường
Đàm: Sau đại tường hai tháng chọn một ngày làm lễ trừ phục, gọi là đàm tế. Bấy giờ mới bỏ hết đồ tang phục mà mặc các sắc phục thường
Đốt mã: Trong khoảng tiểu, đại tường, có hai kỳ đốt mã. Kỳ mã đầu gọi là mã biếu, kỳ mã sau mới thực là mã dâng cho người mất dùng. Tục hay đốt về tuần Trung nguyên tháng bảy, cũng nhiều nhà thì đốt vào ngày giỗ đầu và ngày giỗ hết
Đồ mã thì làm những đồ thường dùng của người, như chăn màn, quần áo, hòm xiểng, mâm bát v.v cho chí thằng quít con nhài, con mèo con chó, có nhà sắm đồ mã tốn đến năm bảy chục, một vài trăm bạc. Nhà thì đốt mã tại gia, nhà thì đốt mã tại chùa. Có người thì làm chay cúng tam tứ phủ năm bảy ngày.
Từ khi mới khám liệm cho đến khi đàm tất, mỗi tuần mỗi tiết như ngày thành phục, ngày phát dẫn, trong ba ngày tế ngu cho đến ngày đại tường, tiểu tường, giỗ đầu, giỗ hết, nhà giàu có thì tế bài linh đình, nhà nghèo thì cúng cấp. Tuần tiết nào cũng mời họ mạc, làng nước khách khứa, lại có bánh giầy bánh chưng biếu, người có nhiều, tốn nhiều, nhà có ít tốn ít, có nhà tốn vài nghìn bạc.
Sự báo hiếu cho cha mẹ, ai không muốn hết lòng hết sức. Nhưng cứ như tục ta thì phiền vãn quá thể, ăn uống lôi thôi, làm cho nhiều người khổ sở vì tục. Với lại nhiều người khi cha mẹ còn thì bạc thị chẳng ra gì, đến lúc mất lại cúng tế linh đình, kẻ có đã vậy, kẻ không có cũng cố đi vay mượn cầm nhà bán ruộng để trả nợ miệng và lấy thể diện với đời, thật là một sự vô ích quá. Một điều nữa là khi cha mẹ mình mới mất, mặt không dám rửa, ăn cơm không dám xỉa răng, mặc đồ xô gai, dây lưng chạc, dơ dáy bẩn thỉu, chịu làm sao cho được, và người hiếu tử thì chẳng cứ thế mới là thương cha mẹ, kẻ bất hiếu thì dẫu bẩn thỉu, tiều tụy đến đâu, vẫn không có lòng gì nghĩ đến cha mẹ, thì sự ấy chẳng qua cũng là hư vãn mà thôi.
Một điều nữa là tục ta đưa ma, con cái khóc lóc sầu thảm quá sức, kể lể con cà con kê, kêu giời kêu đất, nhiều người hết hơi khan tiếng mà vẫn gào. Sự thương cốt ở trong lòng, chỉ ứa hai hàng nước mắt là đủ, mà người thực tình thương có khóc được đâu, thì sự khóc cũng là sự che mắt thế gian mà thôi, lại làm cho váng tai nhức óc người ta khó chịu. Một điều nữa là những nhà hoặc vì có tìm đất hoặc vì có lo liệu công kia việc nọ mà quàn ma trong nhà đến hàng tháng, thì chẳng những là phiền phí hại của, mà có khi tử khí truyền nhiễm lại hại đến cách vệ sinh nữa. Và tử giả dĩ đắc tang vi sinh, để lâu như thế đối với người mất cũng không phải
Còn như lệ làng thì lắm nơi lại hủ quá, sẽ luận ở mục Hương Đảng về sau
Xét như tục tang ma Âu châu, người mất hoặc để tại nhà, hoặc đem đến nhà thờ làm lễ. Hiếu chủ chỉ đưa cái thư báo tang cho người thân tình hoặc người quen thuộc nói rõ ngày giờ nào cất ma. Bà con quen thuộc cứ đúng ngày giờ mà đưa ma, người nào có thân tình thì phúng một vòng hoa hoặc bằng sành, hoặc bằng bột hạt, hoặc vòng hoa thực. Trong khi đưa ma ai nấy im phăng phắc như tờ. Đưa đến huyệt thì các người thân thích đọc bài điếu tang rồi đâu về đấy, hiếu chủ chỉ đón cửa tạ ơn ngưòi đi đưa chứ không mời mọc ăn uống lôi thôi cả ngày
Về sau, cứ ngày lễ tì đem bó hoa đến thăm mả. Tục ấy thanh giản mà tỏ lòng hiếu kính biết dường nào
Tục Nhật bản cũng dùng một cách thanh đạm mà tống táng. Những ai muốn lấy danh giá với đời thì bỏ ra một món tiền, hoặc dăm ba chục, một vài trăm, vài ngàn gửi vào nhà ngân hàng hoặc thương hội nào để giúp vào một việc gì công ích cho xã hội rồi đăng báo cho ai nấy biết rằng người ấy có xuất tiền để làm kỷ niệm cho người chết, thế là danh giá, thế là để cho cha mẹ được vẻ vang. (4)
Tuy vậy, mỗi nước có một tục riêng mà tục nước ta thì quen đã lâu, chưa có thể bỏ tục mình mà theo ngay tục khác được. Nhưng tưởng nên nghĩ cách nào cho tiện mà giảm bớt phiền vãn, bỏ bớt sự ăn uống, tì người giàu có đỡ tốn của, để đồng tiền mà dung vào việc công ích, người nghèo khỏi vay công lĩnh nợ, không đến nỗi hết cơ nghiệp về làm ma. Bấy giờ cũng đã nhiều người giảm bớt rồi nhưng cái tục bó buộc, còn nhiều người biết tục dở mà chưa bỏ được.
Chú giải chương IX:
(1) Tập tục ngậm hàm xuất phát từ ảnh hưởng của thuyết Phật giáo cho rằng người chết sau khi xuống âm ti thì phải trài qua “thập điện diêm vương” có tới 123 cửa địa ngục với vô số ngạ quỷ cướp bóc, nên nới cất dấu của cải an toàn nhất là ngậm trong miệng. Tham khảo thêm tại link này
(2) Tham khảo tại link này
(3) Trong một số trường hợp bất đắc dĩ, như hai họ đã định ngày cưới gả, thiệp mới đã phát không thể thu hồi; hoặc trai gái yêu nhau đã lâu, nếu đợi thêm 3 năm hết khó mới được cưới gả thì e là thiệt thòi cho cô gái, trong khi gia đình nhà trai cũng muốn sớm có nối dõi tông đường, vv… những trường hợp này gia đình tuy đã khâm liệm người chết nhưng chưa vội báo tang, đợi tiến hành cưới hỏi xong rồi mới phát tang chôn cất.
(4) Từ thời sơ sử, nước ta đã có tập tục phong hiệu thụy, tức phong danh hiệu cho người chết, để tỏ lòng báo ân. Những người bình thường thì do gia tộc họp lại để bàn đặt; Vua quan trong triều thì do triều đình phong tước. Ví dụ: Trần Quốc Tuấn sau khi mất được nhà Trần phong là Hưng Đạo Đại Vương; Đinh Liệt được nhà Lê phong là Linh Cảm Đại Vương; trong khi Lý Nhật Quang lại được nhân dân tôn phong là Tam Tòa.
*****
Chương X: CẢI TÁNG
Người mất, sau ba năm đoạn tang rồi hoặc một vài năm nữa thì con cái lo việc cải táng.
Trước hôm cải táng làm lễ cáo từ đường. Đến hôm táng, lại làm lễ khấn Thổ công chỗ để mả mới táng
Trước hết khai mả, nhặt lấy xương xếp vào một cái tiểu sành, rẩy nước vang vào, rồi che đậy thật kín, không cho ánh sáng mặt trời lọt vào được. Nhà phú quí thì dùng quan quách, khám liệm như khi hung tán
Đoạn đem cải táng sang đất khác. Còn quan tài cũ nát thì bỏ đi, tốt thì đem về hoặc dùng làm cầu, làm chuồng trâu chuồng ngựa, để trâu ngựa đứng khỏi sâu chân.
Tục lại tin rằng: hễ ai đau tức thì lấy mảnh ván thỏi (mảnh ván quan tài nát) đốt lên, để dưới gầm giường mà nằm thì khỏi đau tức
Cải tang có nhiều cớ:
Một là vì nhà nghèo, khi cha mẹ mất không tiền lo liệu được, mua tạm một cỗ ván xấu, đợi xong ba năm thì cải táng kẻo sợ ván hư nát thì làm hư hại đến di hài.
Hai là chỗ đất mối, kiến, nước lụt thì phải cải táng. Ba là vì chỗ mồ mả chạm phải đường cái, hoặc thành mới mở, bất đắc dĩ phải cải táng. Bốn là vì các nhà địa lý, thấy chỗ mả vô cớ mà sụt đất, hoặc cây cối ở trên mả tự nhiên khô héo, hoặc trong nhà có kẻ dâm loạn điên cuồng, hoặc trong nhà đau ốm lủng củng, hoặc trong nhà có kẻ nghịch ngợm sinh ra kiện tụng lôi thôi thì cho là tại đất mà cải táng
Năm là những người muốn cầu công danh phú quí, nhờ thầy địa lý tìm chỗ đất cát địa mà cải táng. Lại có người thấy nhà khác phát đạt, đem mả nhà mình táng gần chỗ mả nhà người kia để cầu được hưởng dư huệ.
Trong khi cải táng, tục có ba điều tưởng thụy mà không cải táng:
- Một là khi đào đất thấy co con rắn vàng thì cho là long xà khí vật.
- Hai là khi mở quan tài ra thấy có dây tơ hồng quấn quanh quít thì cho là đất kết.
- Ba là hơi đất chỗ đó ấm áp, trong huyệt khô ráo, hoặc có nước đóng giọt lại như sữa đều là tốt.
Khi nào gặp như thế thì phải lập tức lấp lại ngay
Trước khi hung táng thì đắp hình vuông, đến lúc cải táng thì đắp hình tròn. Nhà phú quí thì xây lăng, nhà thường thì dựng mộ chí, đợi khi tuần tiết đến thăm viếng.
Tục cải táng có người theo, nhưng cũng có người khi hung tang, sắm sửa quan quách kĩ càng, thì không cần gì phải cải táng nữa.
Tục này bởi ta tin cái lý tưởng tổ tiên với con cháu, huyết mạch tương quan với nhau. Hễ hài cốt của tổ tiên có ấm cúng thì con cháu mới mát mặt, hài cốt không yên thì con cháu cũng không yên, cho nên mới có tục ấy. Nhiều người tin địa lý quá, mời thầy địa lý phụng dưỡng hai ba tháng trong nhà để đi tìm đất. Có nhà động thấy trong nhà không yên thì lại cải táng, có khi cải tang đến năm, sáu lần.
Thiết tưởng hài cốt tiên nhân, nếu có lòng kính trọng thương xót, thì chớ có nên di đi dịch lại nhiều lần. Trừ ra những khi vạn bất đắc dĩ thì mới cải đi mà thôi, chớ không nên vì công danh phú quí là việc hy vọng chưa tưởng thấy mà làm đến việc thương tâm thảm mục. Vả lại việc khai mả cũng có khi quan hệ đến việc vệ sinh thì lại là việc không nên làm. Cũng như gia đình hay dở là do người sống, một khôn một dại khác nhau, chứ có phải tại đất đâu. Nếu có tại đất, cũng không dễ mà tìm được, chẳng qua nhà nào có phúc hậu thì tự nhiên gặp hay, nhà nào bạc ác thì có khi gặp dở, cần gì phải uổng công mệt sức mà đi cầu cái việc vu vơ làm gì.
*****
XI. KỴ NHẬT
Ngày giổ cụ kị, ông bà, cha mẹ, gọi là ngày kỵ nhật. Chiều hôm trước là cúng tiên thường (1), hôm sau mới là ngày chính kỵ. Cái giỗ xa (cụ, kỵ, ông, bà) thì sắm sửa con gà, ván xôi hoặc một vài mâm cỗ, trước cùng gia tiên, sau con cháu sum họp ăn uống với nhau. Còn về ngày giỗ cha mẹ thì tục thường làm phong phú hơn.
Trong khi giỗ, dẫu làm lớn nhỏ thế nào thì mặc lòng, nhưng làm sao tất cũng phải có một bát cơm úp vào một quả trứng luộc làm đầu. Cỗ bàn thì tùy nhà giàu nghèo mà phong, kiệm khác nhau. Nhiều nhà mời bà con khách khứa. Bà con khách khứa, người thì mang chè rượu, người thì đem vàng hương đến lễ giỗ rồi mới uống rượu với nhau.
Nhà hào trưởng trong làng có khi cả làng đến ăn giỗ, nhà ông thầy dạy nhiều học trò thì cả học trò đến ăn giỗ, nhà quan trưởng thì thường cả tổng lý phủ huyện đến ăn giỗ phiền phí lắm
Có nơi chiều hôm cúng tiên thường, bà con đã đến chơi đông, uống rượu xong thì giở ra bài bạc, thuốc phiện, lấy tiếng rằng ở lại chầu chực gia tiên mà bày ra cuộc vui vẻ. Sáng hôm sau uống một bữa rượu chính kỵ nữa mới tan
Nhớ kỵ nhật tiền nhân mà cúng cấp cũng là một bụng tốt. Những nguyện ý lúc người mới chế lễ ra, chẳng qua dùng cách ấy để tỏ cái lòng nhớ tổ tiên nhân sinh ra mình, là người gầy dựng nên cơ nghiệp cho mình, là một ý bất vong bản mà thôi, chứ không phải dùng cách ấy để làm sự vui vẻ làm cách giao thiệp với đời. Kỳ thủy ta không phải là không hiểu cái ý ấy, nhưng chắc vì cớ mấy người trước muốn nhân dịp nhà mình có sẵn cỗ bàn cúng cấp mà muốn họp mặt bà con anh em. Hoặc vì bà con anh em vì cùng người gia hạ, nhớ đến ân tình của ông cha mình, hay là vì nể nang mà đến giỗ kỵ, mình có lẽ nào vong tình được mà chẳng khoản đãi. Vì thế thành tục, té ra phần nhớ đến tiền nhân thì ít, mà phần lo về khoản đãi bà con khách khứa thì nhiều
Đã đành rằng có thì mâm cao cỗ đầy, chẳng có thì lưng cơm cái trứng cũng đủ tỏ chút lòng thành, nhưng ngặt vì tục đã quen, không cố là lo được thì người ta chê là bủn xỉn, mà trong lòng mình cũng áy náy không đành.
Ngày kỵ nhật là một ngày chung thân chí tang, thì là ngày thương xót, ngày rầu buồn, đáng lẽ chỉ nên đóng cửa mà thương nhớ mới phải. Mà dẫu có theo tục dùng cách cúng tế làm sự kỷ niệm thì làm thế nào cho giản tiện, miễn là tỏ được chút lòng với tổ tiên là đủ, tưởng không nên bày vẽ cho thêm tốn làm gì. Nếu có của mà muốn họp mặt bà con anh em, khoản đãi khách khứa thì tưởng nên dùng vào những dịp ăn mừng thì đúng hơn
Xét như tục Âu châu, nhớ ngày húy nhật, con cái chỉ đem bó hoa ra thăm mả là cùng.
Tục Nhật bản: cũng chuộng sự tế tự, nhưng đến ngày húy nhật, con cháu chỉ đem hương hoa dâng cúng mà thôi. (2)
Xem như tục các nước văn minh ấy, tuy rằng thanh đạm nhưng thực là đủ tỏ lòng thành kính mà lại giữ được tiền của để dung vào việc đáng dùng.
Chú giải chương XI:
(1) Cúng tiên thường: Nguyên tập tục này của nước ta, nhân dân rất coi trọng Hoàng Thiên Hậu Thổ. Quan niệm rằng khi sang thế giới bên kia, linh hồn phải chịu phép tắc của cõi âm ti, muốn về lại được trần gian phải có sự đồng ý của Thổ Công Hà Bá, cũng như Thành Hoàng bản xứ. Do đó người nhà cần có cây hương bát nước thắp cẩn cáo xin phép trước một hôm để linh hồn được qua cửa phủ về hưởng lộc trần gian.
(2) Việc này, người Việt quan niệm người âm là một linh hồn sống không cần thể xác, nên vẫn có đủ các giác quan nghe, nhìn, ngửi, vv… do đó vẫn còn ham muốn như người trần, nên cần phải mời ăn, mặc, tiêu xài tử tế.