Bài và ảnh của Phlanhoa
Cũng bởi tại cái tính tò mò, biết được cái gì là những muốn biết cho tới tận ngọn nguồn gốc rễ, cho nên tôi hết đọc về rượu lại sang đọc về trà. Xin đừng thắc mắc nhiều vì sao tôi là đàn bà mà cứ ham hố ba cái thứ trà rượu. Tôi đã có nói lý do rồi đấy, dù sao thì tại Việt Nam quý ông chỉ là người “thưởng ẩm” còn “chế ẩm” đa phần là phụ nữ. Cơ mà chế biến mà không biết tới cái linh hồn của trà nằm ở đâu thì làm sao mà hành đạo trà cho đúng phép tắc? Làm sao mà biết cách thu hồi hết được tinh túy của trà vào trong ấm trà cho quý ông thưởng thức cho được? Nhưng đọc sách kia, sách nọ tùm lum cho đã rồi lại mông lung, sinh ra lắm thắc mắc nọ kia…
Văn hóa uống trà xưa nay, nhiều người cứ ngỡ là chỉ thịnh ở Trung Hoa với xứ Phù Tang. Song đi sâu tìm hiểu, thì hóa ra Việt Nam cũng là cội nguồn cả từ cây trà, chế biến trà cho đến đồ pha trà đấy chứ. Gốc gác cội nguồn là thế, cớ sao Việt Nam lại có ít sách nói về trà đạo của mình thế? Báo hại tôi tìm đọc cũng chỉ toàn là loại sách dịch thuật lại của Nhật hay của Tàu. Mà sách của nước người viết ra thì đương nhiên phải nói kỹ, nói hay về văn hóa của họ. Tuy nhiên, lịch sử rờ rỡ ra đó, nên họ không thể phủ nhận có dính dáng đến ta. Và trong những dòng hiếm hoi đó, vài tác giả Việt Nam đã lần mò ra vài điều đáng chú ý trong lịch sử trà đạo có liên quan đến xứ mình. Tôi có lẽ cũng nằm trong số đó, cũng có chính kiến của riêng mình vậy.
Trước hết mà nói, về cội nguồn cây trà thì:
- Lục Vũ là ông tổ của Trà đạo Trung Hoa từng chép trong cuốn Trà Kinh: “Trà là loài cây quý ở phương Nam, cây như cây qua lô, lá như lá chi tử, hoa như hoa bạch tường vi, trái như trái banh lư, nhụy như nhụy hoa đinh hương, mùi vị rất hàn (lạnh). “; “Người phương Namcó cây qua lô giống như lá trà non mà nhụy đắng, giã nát ra pha trà mà uống thì suốt đêm không ngủ. Ở Giao Châu và Quảng Châu người ta rất quý thứ này, hễ có khách đến nhà thì trước hết bày ra đãi khách".
- Sách Quảng Bác Vật Chí lại ghi: “…cao lư là tên riêng của một thứ trà, lá to mà nhụy nhỏ, người Nam dùng để uống…”
- Lý Trọng Tân học sĩ nói rõ ràng hơn: "Trà ở Giao Chỉ như rêu xanh, vị cay gắt gọi là trà đăng (tức là mạt trà). Những núi ở huyện Ngọc Sơn, tỉnh Thanh Hóa có trồng thứ trà này. Cây trà mọc liên tiếp che khắp rừng. Người bổn thổ hái lá, giã cho nát, phơi khô trong bóng mát, nấu mà uống, tính nó hơi hàn, có thể làm mát tim phổi và ngủ ngon…”
Như vậy, chí ít, sớm nhất, cây trà cũng đã có mặt ở nước Nam ta trước thời Đường và đã du nhập vào Trung Hoa những từ thời đó.
Vậy còn đồ uống trà thì sao?
Từ thuở triều Hán, Ðường, Tùy, ta đã chế được thứ gốm tên gọi Việt Dao, men màu xanh biếc như ngọc cổ. ghi chép của sách Tàu thì cho rằng Việt Dao phát sinh từ Nam Việt miền Ngũ Lĩnh, song di chứng khảo cổ học, lại chứng minh gốm Việt Dao làm bằng chất liệu đất Giao Châu, Cửu Chân.
Từ màu xanh bích, đến màu xác trà đời Lý, Trần, gốm trà Việt Nam tồn tại song song với bát trà Đường, Tống của Trung Quốc. Bình trà của Đại Việt ta lúc bấy giờ mang hình thái tòa sen chạm nổi.
Khoảng đầu thế kỷ thứ 14, Theo bước chân của Phật giáo, cây trà từ Trung Hoa du nhập vào nước Nhật. Nền gốm sứ của Nhật lúc bấy giờ rất mờ nhạt, cho nên đồ uống trà được nhập từ Cao Ly, Trung Hoa và Đại Việt. Tuy nhiên gốm sứ Trung Hoa sau đó phát triển theo chiều hướng ngày càng văn hoa tinh xảo, cầu kỳ. Điều đó chỉ đáp ứng được chốn cung đình của chính nước họ, mà không phù hợp với tâm hồn người Nhật. Trong khi đó, gốm trà nước Đại Việt vẫn phát triển theo khuynh hướng “thuận tự nhiên”, với màu xác trà, lại phù hợp với sở thích người Nhật.
Đến khoảng thế kỷ 16, nước ta có dòng gốm vẽ lam, nét phóng bút cảnh chim trời, cá nước, sơn thủy... trên gốm trà trùng với khuynh hướng vẽ tranh Thiền, thư pháp của người Nhật, khiến họ say mê gốm trà Việt. Hiện nay, nước Nhật còn lưu giữ khá nhiều những đồ gốm sứ cổ có nguồn gốc từ Việt Nam. Mặc dù món uống trà của Nhật có nguồn gốc là du nhập từ văn hóa Trung Hoa, nhưng nghệ thuật gốm trà Việt mới gây ảnh hưởng mạnh trong lịch sử trà đạo Nhật. Điều đó cho thấy sự rung động tâm hồn trước cái đẹp của người Việt và người Nhật vào khoảng thời gian này gần nhau hơn. Nghệ thuật dân gian Nhật ((mingei) không khác mấy so với nghệ thuật dân gian Việt Nam.
Chỉ là gần thôi, nhưng nghệ thuật chế biến trà và pha trà thì đúng là ba nước Trung – Nhật – Việt chẳng ai giống ai. Bây giờ tôi xin được trình bày sơ qua về hình thức, nghi lễ uống trà của ba nước, để có cái mà so sánh:
Người Trung Hoa khẳng định rằng: “văn hóa trà Trung Hoa và nghệ thuật uống trà của họ có tác dụng phát triển kinh tế và phát triển khoa học của đất nước”. Ông Tổ về trà của Trung Hoa là một người có tính cách khá ngất ngưỡng, Hán Vũ thường đi lang thang ngâm thơ rồi tự nhiên khóc rống lên ồ ồ. Trong cuốn “Trà kinh’ của ông để lại cho đời, cũng đủ khiến cho việc uống trà trở thành huyền thoại, ngỡ như là uống nước tiên vậy.
Với quan niệm của người Trung Hoa thì phép uống trà là phải đạt được đầy đủ “Chân – Thiện – Mỹ” mới là đạt đạo; tác phong phải “Hòa – kính – Thanh – Tĩnh”; cái tâm hồn phải hướng đến cái đẹp trong sáng của “Hoa – Tuyết – Nguyệt”. Người pha trà cần tập dượt nhiều để có tay nghề điêu luyện như diễn viên xiếc, từ việc đong trà đổ vào ấm sao cho leng keng, rót nước làm sao cho róc rách như suối chảy; Người thưởng trà phải có phong thái thư thả, ngấp một ngụm thật nhỏ rồi giữ lại trong miệng chép miệng ba bốn cái cho trà tràn vào chân răng và cổ họng, thở ra bằng mũi để đưa hương trà xông lên trí não, làm cho trí não thêm phần sảng khoái…
Chén đầu tiên – ướt họng môi
Chén hai phá hết cô sầu quạnh hiu
Chén ba tẩy ruột khô nhiều
Chỉ còn văn tự năm nghìn quyển thôi
Chén tư rươm rướm mồ hôi
Trong đời những chuyện lôi thôi bất bình
Trong đời những chuyện đáng kinh
Cũng đều thoát hết ra đường chân lông
Chén năm hình thể sạch trong
Chén sáu thanh tịnh suốt thông cõi màu
Chén bảy uống chẳng đặng đâu
Bên tai gió nhẹ từ đâu thoảng về
(Trích Trà Ca –của Lô Đồng– Nguyễn Bá Hoan dịch)
Người Nhật thì khác, với những luật lệ đặt ra một cách khắt khe, cá nhân tôi cho rằng họ quá cầu kỳ:
- Về thời gian: Uồng trà phải đúng giờ, chia làm bốn cữ (7h sáng, 8h sau bữa sáng, 12h trưa và 6h chiều. Đương nhiên mỗi thời khắc lại phải có một loại trà khác nhau để uống.
- Về số người tham gia: được hạn chế tố đa không quá 4 người
- Về không gian uống trà: Cần có ba căn phòng cho một cuộc trà đạo. Trước hết là một căn phòng đợi, căn phòng này thường cách xa phòng uống trà một chút, có cây cảnh hoa lá chung quanh. Khách đến thường ngồi ở căn phòng này trước, tháo dày, nếu là võ sĩ cần phải tháo kiếm để biểu thị không khí hòa bình. Trước phòng khách thường có cối nước, khách cần rửa tay rồi mới khom mình bước vào nhà một cách khiêm tốn. Gõ vào chiếc chuông gỗ ở phòng khách để báo hiệu cho chủ nhà là mình đã đến.
- Phòng uống trà và phòng đặt dụng cụ pha trà là hai căn phòng cạnh nhau. Người chủ trì phải cạo trọc đầu để biểu thị sạch sẽ, thanh khiết. Khách sẽ được ăn một chút điểm tâm trước khi uống trà, món điểm tâm cũng đòi hỏi tinh tế và biểu thị theo mùa, ví dụ như mùa thu thì món ăn sẽ được tạo hìnhlá kiếm phong, mùa xuân thì tạo hình hoa anh đào…
- Đồ pha trà phải thô, nặng, có men màu cam hoặc sậm đen dáng vẻ cổ kính;
- Trà để pha là bột trà xanh, được nghiền bằng cối đá. Có hai cách pha trà: Trà đặc có màu xnh đậm, chủ nhân múc khoảng hai thìa gỗ tra cho vào bát, dùng cây quậy làm bằng trúc khuấy đều để cho trà có nước đặc như bột đậu. Thông thường ba người uống chung một bát chuyền tay nhau, mỗi người uống ba hớp rưỡi (khoảng ⅓ bát). Trà loãng thì mỗi người một bát, người chủ trì nâng bát trà ngang trán rồi mới uống. Khi uống phải chép miệng để tỏ ý thực sự được thưởng thức trà ngon củ chủ nhân. Khi tất cả chủ và khách uống xong thì nghi thức trà đạo cũng kết thúc.
- Về mặt tinh thần, Trà đạo Nhật duy trì theo chế độ gia truyền trong các gia đình. Trong đó có ba trường phái trà đạo lớn đáng kể ở Nhật là Risenka, Hyosen và Bushakoro. Người Nhật cho rằng thông qua trà đạo có thể phát hiện được giá trị tinh thần cần có của bản thân. Cũng giống như người Hoa, Trà Đạo Nhật lấy “Hòa – Kính – Thanh – Tĩnh” và “Tịch” (mỹ học) làm chuẩn mực.
Thế còn Việt Nam chúng ta thì sao? Chúng ta có trà đạo hay không?
Nếu mà quan niệm rằng phải làm thủ tục nọ kia mới gọi là trà đạo, thì cả Việt Nam và Trung Quốc đều không trà đạo, vì tục uống trà của Việt Nam và Trung Quốc không o ép nhất nhất phải theo một nghi lễ nhất định. Nói thế không có nghĩa là văn hóa uống trà của Trung Quốc và Việt Nam không có nghi lễ, cũng phải mời mới có bạn uống vậy, rồi cũng có nghệ thuật pha trà vậy. nhưng vượt lên trên cả lễ giáo, sự “mời” của người Việt và người Hoa có phần phóng khoáng, mọi nơi, mọi chỗ hơn, nhưng lại lai rai được lâu hơn với nhau một cách tự nhiên và thân tình hơn.
Cái gọi là “đạo” trong phép tắc uống trà cũng không hẳn là không có, đưa được hương trà lên trí não làm cho tinh thần sảng khoái đã là một nghệ thuật rồi. Uống mà biết ngon dở cũng đã là dày kinh nghiệm rồi, huống hồ chi quanh bàn trà còn đàm đạo được cả việc Chân – Thiện – Mỹ, thậm chí còn cao hơn nữa là việc nước non đại sự, sao lại không coi là “đạo”. Có ai quy định là phải cử hành nghi lễ đạo mạo mới được coi là “đạo” đâu?
Bây giờ tôi sẽ đề cập đến trà Việt Nam. Việt Nam có vô số loại thức uống hấp dẫn được gọi là trà (hoặc chè), như trà xanh, trà đắng, trà cung đình, trà ô long, chè vối, chè vằng, chè trâm; Rồi trong các loại trà lại có dăm ba tên gọi phân biệt chủng loại như trà xanh thì có trà móc câu, trà sen, trà lài; trà cung đình của triều Nguyễn thì còn đưa ra những cái tên gọi mà nghe qua đã thấy phát huy tính tò mò thôi rồi, như trà quân vương, trà tể tướng, trà hoàng hậu, trà cung phi …
Trong số trà đó, có bốn thứ trà trong nhóm trà xanh, tôi cho rằng nếu Việt Nam quan tâm đến vấn đề gìn giữ, quảng bá, sẽ tôn vinh được đặc sản thuộc hàng có một không hai trên thế giới. Bốn thứ đó chính là bốn thứ trong nhóm trà xanh: chè xanh tươi, trà móc câu, trà ướp hương sen và trà ướp hương nhài. Đặc biệt là trà ướp hương sen, với lợi thế về hương thơm thanh khiết và giá trị đông y, bảo vệ hiệu quả sức khỏe cho con người, nó đã rất xứng đáng để tôn vinh làm “Đệ nhất trà” rồi. Tôi dám cá cược đấy, nếu sen trở thành Quốc hoa của Việt Nam, trà sen sẽ trở thành “Quốc trà” theo cho mà coi. Sẽ không có thứ trà nào thanh khiết và ý nghĩa hơn trà sen, để lựa chọn làm thức uống ở các bàn trà nghị sự, các nước trên thế giới sẽ biết đến Việt Nam với ấn tượng không hẳn chỉ mỗi hoa sen mà còn cả trà sen. Do đó các doanh nhân Việt Nam cần sớm có ý tưởng kinh doanh dần đi là vừa. Chính Phủ cũng nên suy nghĩ đến việc bảo tồn giá trị cho trà sen Việt Nam, như nước Pháp vẫn bảo tồn rượu nho, hay nước Mỹ bảo tồn rượu Wishky vậy. Tôi cho rằng đừng bảo thủ lối pha trà đặc quánh truyền thống của người Việt Nam. Thoảng hơn, nhưng vẫn giữ trọn được hương thơm tinh khiết của trà Việt Nam, bốn loại thức uống này đều có thể đưa vào phục vụ tại khách sạn, nhà hàng năm sao đàng hoàng, thậm chí theo dự đoán chủ quan của tôi, sẽ còn được ưa chuộng nữa là đằng khác.
So sánh phương pháp sao chế trà của ba dòng trà Nhật – Hoa – Trung. Tôi thấy, nếu như chén trà Nhật ấn tượng cho người thưởng trà ở nghi lễ cầu kỳ; trà Trung Hoa ấn tượng ở nghệ thuật pha trà phóng khoáng, điêu luyện, vui mắt; thì Việt Nam có nét nổi trội khác.
Trà Việt không cầu kỳ ở nghi lễ, nhưng lại hết sức cẩn trọng trong sao chế và pha trà. Người chế biến trà Việt quả thực như một nghệ nhân lao động nghệ thuật thực thụ. Cần mẫn say mê và đầy điệu nghệ, gửi hết cả tâm hồn từ việc chọn từng búp trà, từ việc canh chừng nhiệt độ bếp lửa, kỹ thuật ướp hương sen, hương nhài, cho đến việc chắt chiu từng giọt sương rơi tinh khiết trên lá sen để pha trà. Do đó, trà Việt sau khi sao chế rồi, mà hương trà vẫn nguyên vẹn như giữa thiên nhiên của cánh động trà vậy. Nghĩa là trà Việt khác ở chỗ, chủ nhân tự nhận hết phần cầu kỳ khó nhọc về mình, dành hết phần dễ dàng thoải mái cho khách, bộc lộ tính cách hiếu khách của người Việt. Điều này rất quan trọng ở hai điểm: thứ nhất là khẳng định phong cách khác biệt của trà Việt; thứ hai là trà Việt sẽ dễ dàng hòa đồng hơn vào các nền văn hóa khác, chính nhờ vào việc không cầu kỳ nghi lễ ở khâu “thưởng ẩm”. Với trà Việt, người uống trà chỉ cần cảm nhận được thức uống thơm ngon đó từ chính trí não, tâm hồn của mình là coi như đã sành điệu rồi.
Tại vì chót đề cái tít có hai chữ “văn hóa” thành ra phải vòng vèo, chứ mục đích cuối cùng của người viết chỉ là muốn góp ý kiến về sự nghiệp phát triển trà Việt, đồng thời cũng muốn sẻ chia một chút kinh nghiệm pha trà của mình tới bà con cô bác mà thôi.
Chọn mua trà: Trà móc câu thì có hình cái móc câu, thứ trà đen nhánh không hẳn là trà ngon. Trước hết là chọn hình dáng sợi trà săn cong, bên ngoài có lớp phấn bàng bạc. vốc một nắm trà lên ngửi, càng thơm bao nhiêu là trà còn mới bấy nhiêu. Đưa cọng trà và miệng ngậm lại và chờ một lúc sẽ cảm nhận được vị đắng ngọt chảy trên đầu lưỡi, ấy là trà ngon.
Bảo quản trà: Chọn được trà ngon rồi thì phải bảo quản sao cho sử dụng đến cọng trà cuối cùng mà vẫn thơm ngon, không mất mùi, không bị mốc cũng là điều đáng quan tâm. Theo kinh nghiệm của người sản xuất trà phổ biến, thì trà thường dễ bị hư bởi ánh sáng. Do đó bà con không nên để trà trong những bình thủy tinh không màu, trong suốt. Nếu muốn dụng bình thủy tinh thì phải loại có màu nâu trà, nhưng tốt nhất là sử dụng hộp trà chuyên dụng, có tráng thiếc bên trong. Nếu bà con muốn có một hộp trà nghệ thuật để bày trí phù hợp thì phải sử dụng túi bằng giấy kẽm lót vào bên trong lòng hộp trước khi đổ trà vào. Trong hộp đựng trà nên có một túi chống ẩm để trà không bị mốc vào ngày độ ẩm tăng cao trong không khí. Cũng không nên quên đậy nắp hộp cho kín sau khi sử dụng, vì trà là thứ rất dễ hấp thụ mùi.
Đồ để pha trà: Tiện đây tôi cũng xin góp ý kiến luôn với các nhà sản xuất gốm sứ, ấm pha trà cần các yêu cầu sau: Nắp ấm cần ba lỗ nhỏ (Lư – phong – hỏa), hoặc 5 lỗ đối với loại ấm to hơn (kim – thủy – mộc – hỏa - thổ). Lư – phong – hỏa là nói cho có câu chuyện, theo sách “Trà Kinh” ấy mà. Thực ra người pha trà cần mấy cái lỗ nhỏ là để thoát hơi, trà sẽ không bị chuyển màu đỏ khi để lâu trong bình. Bà con biết đấy, trà Việt đâu có phải hết nghi lễ là thôi uống trà đâu, nếu ấm trà pha ra mà để phục vụ cờ tướng chẳng hạn, thì còn lai ra lâu lắm, làm sao để trà ngon cả buổi mới là điều đáng ngẫm. Trên thực tế hiện nay nhiều loại ấm cũng có một cái lỗ nhỏ. Nhưng theo tôi, chỉ có một lỗ thì không thoát hơi được, tỉ như bà con muốn lấy nước từ trong trái dừa mà chưa đục tới hai lỗ thì còn lâu mới lấy được nước dừa. Ngược lại, vỏ bình trà cần thiết phải dày gấp rưỡi, gấp đôi, nếu có thể là nên hai lớp, nghĩa là giữa hai lớp vỏ bình là một lớp không khí, sẽ giữ nhiệt được tốt hơn. Tuyệt đối không nên sử dụng các loại màu vẽ trang trí bên ngoài để trộn với men tráng bên trong lòng ấm, lòng chén trà.
Nước pha trà: Nếu mà cứ đòi hỏi sương trên lá sen để pha trà thì tôi e là phải chuyển hết những người nghiện trà ra sống cạnh đầm sen mất, hoặc là thành phố cần xây dựng những hồ sen rộng lớn cạnh các chung cư thì mới đáp ứng yêu câu được. Nước trời mưa ư? Với bầu khí quyển hiện nay đang bị ô nhiễm bởi bụi công nghiệp thì nước mưa là một giải pháp cực kỳ thiếu an toàn. Tôi đưa ra cho bà con một phương án mới để thay thế, đó là bà con dùng nước giếng hoặc nước máy đổ vào bình lọc nước để lấy nước lọc, chứa vào một cái vại sành để dùng, với nước máy, sau khi lọc xong, bà con cần mở nắp vại đem phơi nắng một buổi cho bay hết clo, để không ảnh hưởng đến màu xanh của trà.
Kỹ thuật pha trà:
- Tỉ lệ 01gr đường phèn hòa tan trong một lít nước sôi để pha trà là lý tưởng nhất. Chú ý, tôi không hướng dẫn bà con uống trà đường đâu nhá, nên nhất thiết không được quá liều, nhớ là chỉ một phần nghìn độ ngọt thôi. Với tỉ lệ đó, trà uống có vị êm tự nhiên hơn, hương tỏa ngọt ngào hơn.
- Chú ý nhất trong khâu pha trà là cái bình trà, không nên dùng xà phòng để rửa bên trong bình trà. Nếu là bình lâu ngày không dụng thì cũng có thể dùng xà phòng để khử mùi mốc, nhưng sau đó dùng vỏ chanh tươi để khử xà phòng, rồi sau rốt dùng một nắm trà thường thả vào, đổ nước sôi cho ngập và ngâm một buổi cho bình trà trở lại với trạng thái như ấm trà được pha thường xuyên, lúc đó mới đem pha trà để uống. Chỗ này tôi cũng xin dặn dò bà con kỹ hơn chút xíu là chớ có chủ quan dùng mũi để ngửi rồi cho rằng mùi mốc hay mùi xà phòng đã được khử hết. Trà là thứ rất khó tính, nó có thể cuỗm mùi hương của nhiều thứ để cạnh nó và chán cái là nó khứ mùi của thứ khác rồi thu hết vào bản thân nó, ví dụ như trà có khả năng khử mùi hôi trong tủ lạnh, phòng lạnh, cốp xe máy vv… một cách hiệu quả. Quay trở lại vấn đề sử dụng cái mũi của mình để kiểm tra, ngửi rồi ta không hề thấy có mùi gì, nhưng đến khi pha trà, gặp phải vị khách nghiền trà đến mức tinh quái, vẫn nhận ra được mùi lạ trong chén trà.
- Người thưởng trà Việt Nam cần phải biết, dân ta quan niệm vế pha trà là càng trong xanh càng đạt tối đa yếu tố kỹ thuật pha. Nên lắc nhẹ hộp trà mấy cái cho vụn rơi xuống đáy hộp, rồi mới hớt phần trà bên trên tra vào ấm. Đổ vào chừng vài chén nước sôi, lắc qua lắc lại rồi rót ra một cái tô, gọi là “tráng trà”, hành động này có giá trị rửa bụi bặm bám bên ngoài cọng trà, có thể làm vẩn đục nước trà. Sau đó mới đổ nước sôi vào om. Để giữ được màu xanh tự nhiên của nước trà, nếu nắp ấm không có lỗ thoát hơi, bà con nên sử dụng cây tăm tre kênh nắp ấm lên một chút, để lượng hơi thoát ra vừa phải không đủ làm nguội trà, nhưng lại không bí bách hơi là nguyên nhân chính làm đỏ nước trà. Nước tráng trà khi đổ ra tô, bà con cho thêm nước sôi vào và thả chén uống trà vào ngâm một chút cho chén được thơm. Trà dưới hộp thường là trà vụn, bà con nên làm một cái túi vải nhỏ, giặt sạch kỹ càng bằng nước trà để làm túi lọc bằng vải bông. Cho trà vào túi lọc, túm lại và thả vào ấm, đổ nước sôi vào pha bình thường. Hiện nay một số ấm trà của Trung Quốc và Việt Nam có sẵn lưới lọc bằn kim loại, nhưng người khó tính sẽ không thích có kim loại dính vào việc pha trà.
- Về mùa đông, bà con nên có một lò than nhỏ xíu, có thể đặt trên bàn được, bỏ vào đó một cục than hồng, phủ tro lên để hãm cho than không cháy quá. Chồng một cái đĩa lên miệng bếp lò rồi để ấm trà lên, trong trạng thái nắp phải kênh như tôi đã nói nhé. Đó là kinh nghiệm của tôi chia sẻ cho bà con để giữ cho ấm trà được nóng nguyên mà nước vẫn xanh kéo dài cho đến khi thưởng thức cạn hết một ấm trà. Như vậy, cũng đồng nghĩa là tôi cần phải ý kiến thêm với nhà sản xuất đồ pha trà, nên thiết kế thêm một cái bếp than, nhỏ nhắn và xinh đẹp đi kèm bộ đồ trà; hoặc một cục gốm đặc với hình dáng điệu đà, có khả năng giữ nhiệt. Trong quá trình pha trà có thể đặt cục gốm nướng hoặc luộc trên bếp, sau đó thì dùng để kê ấm trà, mỗi khi cục gốm chưa nguội thì ấm trà còn nóng. Tóm lại là theo tôi, nhà sản xuất nên thiết kế thêm một dụng cụ giữ nhiệt hợp lý hơn cho bộ đồ trà. Đáp ứng được nhu cầu lài trà với thơ, với cờ tướng…của người Việt.
Thưởng trà: Chú ý, phong tục người Việt, ăn uống mà chép miệng là bất lịch sự, cho nên chúng ta không nên bắt chước theo trà đạo Nhật và Trung Hoa mà chép miệng ba bốn cái, là coi như phá hỏng chính phép tắc của dân tộc mình. Đặt chén trà vào lòng bàn tay, nắm lại vài dây cho cảm nhận được hơi nóng, đưa dần lên mũi và hít hương thơm vào. Nhấp một ngụm nhỏ vào miệng và ngậm lại, để cho trà từ từ lan vào chân răng, cổ họng rồi thở ra bằng mũi. Hương thơm sẽ được thấu vào tận trí não, lúc đó bà con sẽ có cơ hội được thấm thía đầy đủ ý nghĩa hai từ “sảng khoái”.
Tôi tin, và tôi hy vọng, một ngày không xa, văn hóa trà Việt, bao gồm cả trà và gốm trà, sẽ nổi tiếng trên thế giới. Để đạt được điều đó, trước hết rất cần bản thân người Việt Nam phải tự tin ở chính mình, thứ nữa là cần phải có ý thức bảo tồn và