Bài viết của Thái Kim Đỉnh trong cuốn “Làng cổ Hà Tĩnh”
Kẻ Hạ - Việt Yên Hạ, huyện La Sơn, phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, nằm bên bờ sông La, trước ngã ba Tam Soa.
Đây là thôn Tùng Ảnh của xã Quyết Viết đời Trần; là thôn Tùng Ảnh của xã Yên Việt đời Lê Thái Tổ; là xã Yên Việt đời Lê Thánh Tông (Thế kỷ XV); là hai xã Yên Việt, Yên Toàn, và xóm Tiền (Yên Nội) xã Yên Trung đời Lê Kính Tông (thế kỷ XVII); là các xã Yên Việt Hạ và Yên Đồng đời Nguyễn (1), năm 1942 có số dân là 1629 đinh, 4776 khẩu. Sau Cách mạng tháng tám 1945, nhập 5 thôn Tùng Ảnh, Trinh Nguyên, Đông Thái (Yên Việt Hạ), Yên Hội, Yên Nội (Yên Đồng) và Vạn Hộ thành xã Châu Phong, nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, có diện tích 912 ha và trên 7.000 dân.
Kẻ Hạ xưa nay vẫn được coi là vùng thắng tích bậc nhất đất Chi La – La Sơn – Đức Thọ với Tùng Lĩnh, La Giang, Mai Hồ, Ngưu Chử; là nơi đóng quân và có đền thờ hai danh tướng nghĩa quân Lam sơn Linh Cảm đại vương Đinh Lễ Minh (Linh?) Thông đại vương Đinh Liệt; là đất phong của các công thần khai quốc nhà Lê, Phan Đán, Lê Bôi, Nguyễn/Võ Lộng…
Kẻ Hạ xưa nay nổi tiếng là đất học hành khoa bảng, với 21 vị đại khoa và 102 vị hương cống, cử nhân thời Lê, Nguyễn. Do đó Kẻ Hạ cũng là nơi lắm quan. Quan xuất thân khoa bảng và cũng nhiều quan xuất thân võ nghiệp. Vào thế kỷ thứ XIX, lối xóm họ Phan, Đông Thái được gọi là “Ô y hạng” (2). Quan cả nhà, quan cả họ, nhưng không ai có thế lực lớn, vì hầu hết đều chức nhỏ, nhà nghèo. Dưới triều Nguyễn có 15 vị đại khoa, 52 vị cử nhân (trong đó vài người chưa xuất chính), thì 3 người có phẩm hàng cao, một thượng thư bị cách, 2 tổng đốc bị giáng, bị tội, hoặc xin cáo quan vì chán ngán trước thời cuộc, thậm chí tự tử vì không chịu nổi nhục nhã, như trường hợp ông Trần Văn Phổ, thân sinh Trần Phú. Đó là chưa kể trong các văn thân Cần Vương quốc Pháp 2 người bị đục tên trên bia Tiến Sĩ, nhiều người bị coi là “phản nghịch”. Trước sau chỉ có một nhà họ Hoàng, cha đỗ cử nhân làm đến Thượng thư, hàm Thái Bảo, tước Quận công và hai con trai, một đỗ cử nhân làm tổng đốc, một là người Việt Nam đầu tiên đỗ tú tài Tây cuối thế kỷ XIX, làm Tổng đốc hàm Thiếu Bảo, là có uy thế lớn thời thuộc Pháp, mà một nhà thơ trong xã có câu đối vịnh:
“Con cái một nhà hai Tổng đốc
Pháp Nam hai nước một công thần”
Thời Tân học, Kẻ Hạ cũng nổi tiếng học hành thành đạt. Tiêu biểu cho trí thức lớp trước có GS Hoàng Ngọc Phách, các LSTS Phan Anh, Hoàng Quốc Tân, Phạm Thị Thanh Vân (Bà Ngô Bá Thành) vv…Tiêu biểu cho lớp sau có các giáo sư, PGS TS Hoàng Thị Thục, Vũ Ngọc Thụ, Phạm Kim, Phan Văn Duyệt (ngành y); Hoàng Dung, Hoàng Ngọc Hiến, Phạm Đức dương…(KHXH nhân văn), Trần Thu Hà (GSTS âm nhạc, anh hùng lao động), Bùi Việt thắng, Bùi Đình Phong (KHXHNV) vv…
Trí thức, con em Kẻ Hạ có nhiều đóng góp quan trọng trên nhiều lĩnh vực khoa học, văn học nghệ thuật đối với đất nước. Lớp nho sĩ có các nhà giáo Bùi Sằn, Bùi Quốc Toại, Phan Nhật Tỉnh…các nhà thơ Mai Doãn Thường, Phan Điện, nhà biên khảo Bùi Dương Lịch…lớp Tân học có nhiều nhà giáo ưu tú, nhà khoa học, nhà văn, nhạc sĩ, họa sĩ, kiến trúc sư…tiêu biều là nhà giáo, nhà văn Hoàng Ngọc Phách, người mở đầu dòng tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam với tác phẩm “Tố Tâm”.
Kẻ Hạ - Việt Yên Hạ - Tùng Ảnh cũng là vùng đất có truyền thống yêu nước, cách mạng lâu đời. Đây là một trong những căn cứ địa quan trong trong cuộc chống giặc Minh (thế kỷ XV), chống giặc Pháp (thế kỷ XIX) là quê hương của Phan Đình Phùng, Phan Cát Tiu, Phạm Văn Ngôn, Trần Phú…
Thời xưa, dân Kẻ Hạ cũng như các xã trong vùng, chỉ làm nghề nông. Ngoài lúa, khoai, đỗ, sắn, còn có nghề trồng trầu trên đồi núi. Theo sách Yên Hội thôn chí” của Bùi Dương Lịch, thì nghề này có tầm quan trọng kinh tế đến mức, năm dương Hòa thứ 5 đời Lê Thần Tông (1639) có lệnh phân bổ cho quan viên và dân làng nam phụ lão ấu, kể cả cô nhi quả phụ, người nào cũng phải trồng trầu trên một diện tích nhất định và cấm người ở các nơi không được đưa trầu đến bán ở chợ làng. Bắt đầu từ thời Trịnh Thanh Vương 91629), lệnh này được đóng ngọc tỷ (ấn vàng) của nhà vua, các đời lưu giữ bản giao ước này.
Nhưng cũng từ rất sớm, dưới triều Lê, nghề buôn bán và các nghề thủ công cũng rất phát đạt.
Ngoài các chợ trong xã – chợ Ô Sa (chưa rõ tên thường gọi là chợ gì), đời Nguyễn có chợ Hạ, chợ Đồn – và chợ Thượng bờ Bắc sông La , người Kẻ Hạ còn buôn bán nhiều ở những chợ trong vùng, có người lên đến Chu Lệ (hương Khê), Phố Châu (Hương Sơn), chợ Vinh ( Nghệ An). Tuy nhiên ở đây không có người kinh doanh buôn bán lớn.
Nghề thủ công ở Kẻ Hạ thì dệt lụa, làm nón là nổi tiếng hơn cả.
Ai về Hà Tĩnh thì về
Mặc áo lụa Hạ, uống chè Hương Sơn.
Từ thế kỷ XIX, lụa Hạ đã nổi tiếng trong nước. Sách “Đại Nam nhất thống chí” của sử quán triều Nguyễn viết về thổ sản tỉnh Nghệ An (tức Nghệ An và Hà Tĩnh): “Lụa sản ở xã Việt Yên, huyện La sơn, lụa rất dày”. Sách “Đồng Khánh địa dư chí lược” cũng viết : “lụa Hạ có thể sánh với lụa La (Hà Đông), lụa Quảng (Quảng Nam)”. Các tài liệu của người Pháp đều ghi rong mục thủ công nghiệp của tỉnh Hà Tĩnh: “Dệt lụa Hạ (Đông thái, Tùng Ảnh, Trinh Nguyên) (Rô lăng Buy-la-tô – “Tỉnh Hà Tĩnh” – Roland Bulateau – La Province de Hatinh – 1925); “Nghề dệt lụa nhất là Đức Thọ” (tỉnh Hà Tĩnh” tài liệu của sở liêm phóng, chữ Pháp, 1942).
Trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa từ lâu đời đã rất phổ biến ở La Giang – la Sơn, Hương Sơn. Ven sông La là hạ lưu các sông Ngàn Sâu, Ngàn Phố có nhiều bãi bồi trồng dâu. Ở xã Yên Hồ có một làng ven sông La gọi là Đồng Dâu. Phụ nữ nhiều làng nuôi tằm kéo tơ – nhưng chỉ kéo “tơ ngang” (thô) dệt mặc tự túc. Chỉ ở Việt Yên Hạ (chủ yếu là các làng Tùng Ảnh, Trinh Liệt, sau là hai làng Trinh Nguyên, Đông Thái) dệt lụa trở thành nghề chính của đàn bà, con gái. Ở đây cũng có trồng dâu, nuôi tằm, nhưng để có đủ nguyên liệu cho các khung dệt, người ta phải đi mua tơ ở các chợ, các làng trong vùng ven sông La, sông Phố, sông Sâu. “Dân Lâm Thao, Yên Duệ…trồng dâu trên giải đất bồi ven sông, phát triển nghề nuôi tắm kéo tơ, cung cấp sợi cho người Việt Yên dệt nên lụa Hạ, đặc sản vùng sông La. Vào những năm 1935 – 1940, ở Lâm Thao còn có một số hộ làm nghề này” (Vũ Quang – xưa và nay – HU. UBND Vũ Quang – 1955).
Cùng với nghề dệt, dần dà ở đây còn có thêm nghề nhuộm lụa. Hàng lụa Hạ ngoài lụa mộc trắng hay mỡ gà, còn có lụa nhuộm “da bài” may áo, quần đàn ông và nhộm thâm may quần, váy phụ nữ…
Đồ mặc lụa Hạ được mọi người ưa thích:
“Quần lụa Hạ mới cắt,
Áo lương Hạ mới may,
Của thầy mẹ cho đây,
Khi đi thi đi khóa…”
Em ngồi em ước một người “Mặc cái quần lụa Hạ, sắt chạc dây tơ đơn”
“Răng mự đen nhưng nhức,
Má mụ đỏ hồng hồng,
Ướm lụa hạ trắng bong,
Đẹp ỳ duyên cho mự
(Dân ca Nghệ Tĩnh)
Hàng lụa Hạ không chỉ bán các chọ trong vùng mà cón ở chợ Nghệ và ít nhiều còn được đưa ra Bắc, vào Kinh…
Ngày trước người ta khen con gái dệt vải Yên Hồ:
Muốn ăn cơm nếp độ chà
Muốn lấy vợ đẹp thì ra Yên Hồ.
Con gái dệt lụa Việt Yên – Tùng Ảnh cũng được các chàng trai ao ước. Đây là hình ảnh cô gái dệt lụa – bà mẹ Huy Cận, được nhà thơ viết trong mục “Bàn tay của mẹ” (“Hồi ký song đôi”): “Lúc còn con gái ở làng Tùng Ảnh, mẹ tôi dệt lụa, lụa Hạ nổi tiếng. quanh năm hái dâu nuôi tằm và ngồi khung cửi, mẹ tôi có một vẻ thanh lịch riêng, cái thanh lịch của dân phường vải…Lúc về nhà chông, mẹ tôi mang theo một khung cửi, đó là của hồi môn duy nhất. Khung cửi này còn để mãi trong nhà về sau, thinh thoảng mẹ tôi có dệt vải như để nhớ cái nghề con gái của mình…”.
Còn nữa…