Bài viết của Phlanhoa
***
Ghi chú:
Từ những câu hỏi, những yêu cầu của khá nhiều vị tộc trưởng gửi tới vidamdodua.com. Nội dung này và những nội dung đã đăng tải trước đây về "Cấu trúc thờ cúng tại nhà thờ họ và nghi thức tổ chức tế lễ hàng năm" là lòng thành của Phlanhoa đối với trăm họ, cầu mong phước lành cho nhân dân, do đó yêu cầu:
- Đề nghị không được tự ý copy nội dung này đăng tải sang các trang web khác. Không sử dụng nội dung để bán mua trên mạng, hay ngoài thị trường.
- Phlanhoa từ chối cung cấp bản đánh máy sẵn cho bất kỳ ai yêu cầu, các vị Tộc trưởng phải tự tay chép nội dung nếu cần để ghi nhớ được sâu sắc, chứng tỏ lòng thành với việc họ. Phlanhoa sẽ không trả lời những câu hỏi của các vị nếu câu hỏi đó thể hiện đọc nội dung qua loa lấy lệ.
Phlanhoa xin cám ơn!
Phần III- Ý nghĩa của vái lạy
Vái lạy trong tập tục người việc được coi là cử chỉ hành lễ, không chỉ có trong cúng tế, mà trong cuộc sống đời thường, nhân dân ta cũng thường có hành động vái lạy để hành lễ. Ví dụ khi cháu con có người đỗ đạt vinh quy, quay về thăm lại cố hương thì phải hành lễ tạ ơn sinh thành bằng cách lạy ông, lạy bà, lạy cha, lạy mẹ; con gái trước lúc vu quy cũng cúi lạy từ biệt mẹ cha. Văn võ bá quan vào giờ tiến triều thì cúi đầu lạy vua…
Còn vái thực chất là cử chỉ chào xã giao giữa huynh đệ, tỉ muội; giữa những người tương đồng vai vế trong xã hội; giữa những người bình thường với nhau… ví dụ khi đang đi, gặp nhau giữa đường, hoặc đang ngồi nói chuyện với nhau, có người muốn đứng lên đi, người xưa thường chấp hai tay đưa cao ngang, ngực, ngang trán để chào nhau.
Từ cử chỉ hành lễ trong đời thường, dù khi vua chúa, người thân trong gia đình, hay bạn bè, thậm chí là hàng xóm láng giềng, có ai đó thành người tiên cổ, những người còn sống trên dương thế vẫn giữ nguyên tình cảm không thay đổi, đáng lạy thì lạy, đáng vái thì vái trước linh hồn.
Vái là cử chỉ chào theo phép tắc lịch sự, lạy là hành lễ tạ ơn, do đó trong cúng bái, nhân dân thường trước thì vái, sau thì khấn niệm và cuối cùng là lạy. Tất nhiên phải tùy theo trường hợp thực tế, trước hương án là ai, vai vế gì, có nhất thiết phải lạy hay không, nhưng vái chào trước khi hành lễ thì nhất thiết phải có.
Vậy vái và chào như thế nào thì đúng và đủ?
Nhiều người hỏi tôi sao thầy cúng với thầy chùa lúc thì bảo lạy một lạy, lúc thì ba, năm, bảy lạy ? Xin thưa, các kiểu lạy đó là của riêng Phật giáo, còn trong tiềm thức người Việt luôn luôn coi trọng con số 3 là số tam tài.
Ví dụ:
- Đền, chùa, hay nhà thờ họ đều có thượng điện, trung điện, hạ điện;
- Bàn thờ gia tiên cũng tam cấp gồm thần linh, gia tiên người lớn, và bà cô ông mãnh.
- Khi tế lễ, nhân dân cũng thường cử hành ba lần hiến lễ, lần thứ nhất gọi là hành sơ hiến lễ, lần thứ hai gọi là hành á hiến lễ, và lần thứ ba gọi là hành chung hiến lễ;
- Vái, lạy cũng thế, trước khi hành lễ vái đủ ba vái, và sau mỗi lần cúng tế xong luôn phải đủ ba lạy, ý nghĩa là : vái/lạy thứ nhất là vái/lạy Thiên, vái/lạy thứ hai là vái/lạy Địa, vái/lạy thứ ba là vái/lạy Nhân (nhân ở đây được hiểu là gia tiên);
- Nhưng khi cúng tế ngoài trời, thì có khác một chút, nếu là cúng Thiên thì vái tám phương tám vái, vái thứ chín vái trước hương án (vái Hoàng Thiên). Sau khi hành lễ xong thì ba lạy trước hương án. Đối với cúng Địa, thì vái bốn vái đông tây nam bắc và một vái trước hương án là 5 (vái Hậu Thổ), sau khi hành lễ xong cũng lạy ba lạy.
- Cúng Phật thì muôn vàn kiểu, không nói hết ở đây được, mỗi thiền phái đều có quy định riêng về vái lạy, thậm chí mỗi bài kinh có một quy định lạy vái riêng, cho nên bạn phải đọc kinh Phật để thấu hiểu.
Hình thức vái lạy như thế nào?
Vái có vái ngắn và vái dài. Vái chào để vào lễ là vái ngắn, vái đi kèm với phủ phục (lạy) là vái dài.
Vái ngắn (vái chào): tay trái tượng trưng cho dương, tay phải tượng trưng cho âm, hai lòng bàn tay úp khít vào nhau tượng trưng cho âm dương hòa hợp, dơ cao ngang trán rồi mới vái.
Lạy: lạy là hình thức kết hợp vái dài với phủ phục. Úp hai tay vào nhau dơ cao ngang trán, quỳ dần từng đầu gối trái trước, phải sau, rồi vái dài, mọp dần lưng xuống cho tới khi phũ phục hoàn toàn, trán chạm đất mới bỏ hai tay ra, từ từ đứng lên nghiêm trang, tiếp tục lặp lại lạy cái thứ hai, thứ ba giống như lần thứ nhất.
Phần IV – Nghi thức tế lễ
Để một buổi tế lễ nghiêm trang và hoàn chỉnh. Mỗi họ tộc nên thành lập “Ban trị sự hành lễ” cho họ mình để luyện tập thao tác cho thành thạo, để không thụ động và lúng túng khi vào cuộc.
Chú ý! có vị tộc trưởng hỏi tôi rằng nếu ông ta không thành thạo việc chấp lễ, thì có thể thuê đội cúng tế nữ đến làm thay?
Xin thưa rằng xét về đạo lý hay quan niệm tập tục đều không ổn. Buổi tế lễ trong từ đường nhà thờ họ xưa nay do nam giới chủ trì. Chủ tế luôn luôn phải là trưởng tộc, hoặc người có uy tín nhất do họ tộc bình chọn, tiến cử. Xét về đạo nghĩa, có mỗi việc đọc chúc văn và lạy vài cái mà tộc trưởng bảo không quen, thì cái tâm chưa được coi là thành cho được, giả sử bạn có người con làm quan, nó bảo lính nó lạy dùm mấy cái bạn có bằng lòng không? Từ đó mà suy ra nên hay không nên…
Nội dung chuẩn bị và các bước tiến hành như sau:
Thành phần Ban trị sự hành lễ gồm các chức danh sau:
1. Chủ tế: Tộc trưởng, trường hợp tộc trưởng đã quá già không còn đủ sức hành lễ, thì bá cáo tổ tiên ủy thác người kế nghiệp (tộc trưởng tương lai) phải luyện tập để thay thế. Trường hợp tộc trưởng tương lai quá bé chưa biết hành lễ, thì họp họ tộc đề nghị tiến cử bậc cha chú có uy tín thay thế.
2. Bồi tế: hai bậc lão thành có uy tín, có phúc đức nhất của họ tộc
3. Điển xướng: Người điều khiển chương trình
4. Tả chúc văn: người viết chúc văn (có thể do tộc trưởng, hay một người trong họ văn hay chữ tốt lãnh trách nhiệm).
5. Nội tán: là hai người trợ lý đi hai bên khi chủ tế bước vào chiếu tế.
6. Đồng văn: hai người đánh chiêng, đánh trống
7. Chấp sự: Bên trong từ đường cần hai người đứng hầu hai bên tả hữu, để sẵn sàng phục vụ việc dâng rượu, dâng hương, phúng và đốt văn tế. Bên ngoài cần vài ba người giữ gìn trật tự, yêu cầu không ai nói chuyện riêng, hay đi lại lộn xộn trong quá trình xảy ra tế lễ, và để tiếp nhận nhiệm vụ từ chấp sự bên trong chuyền ra như thắp hương bên ngoài, thiêu hoá kim ngân…
Ghi chú: Điển xướng và người đánh trống có thể gộp vào một vai vừa đánh trống vừa làm điển xướng hô hiệu lệnh; nội tán và chấp sự cũng có thể gộp thành một nhiệm vụ cho khỏi vướng víu nhau khi chấp sự, bởi phía sau chủ tế đã có hai bồi tế đứng hai bên.
Bài trí quang cảnh buổi tế lễ
Việc bài trí trên linh điện, thượng, trung, hạ điện và vong điện tôi đã nói ở bài trước rồi, nay phụ thêm các công việc bài trí khi chuẩn bị vào tế lễ.
· Để chấp sự có thể dâng hương, dâng rượu, hai bên bái đường tả hữu đều phải có lối đi dễ dàng để dâng hương lên đến linh điện, thượng điện, trung điện, hạ điện
· Phía trước hương án bày bốn chiếc chiếu, hoặc bốn tấm thảm thành một hàng dọc: Chiếu gần hương án là chiếu thần vị, chiếu kế đó gọi là chiếu thụ tộ (nhận lộc) *, chiếu thứ ba là chiếu chủ tế; chiếu thứ tư là chiếu bồi tế.
· Bên ngoài cửa ra vào đặt một cái kệ có ba thau nước sạch và thơm, ba chiếc khăn sạch để cho chủ tế và bồi tế rửa tay, rửa mặt trước khi chấp lễ.
· Từ đường còn cần phải thiết kế đủ rộng rãi để đội nhạc có vị trí phục vụ, và điển xướng có vị trí thuận lợi điều khiển buổi tế lễ, người chụp ảnh, quay phim đi lại (khi họ tộc có nhu cầu)
· Giữa sân, nơi quang đãng không có cây che, để một bàn tròn bày hương – đăng – hoa – quả - nước lã và một bát hương (hoặc xây dựng một lư hương lớn ngoài trời), để cho cháu con mỗi người có thể thắp một nén hương và cầu nguyện ngay lúc bên trong chủ tế hành lễ trước hương án. Và còn dùng để cầu an, cầu siêu vào buổi tối.
· Chuẩn bị sẵn một khay gồm 9 cái chén và một bình nước lã; một khay khác gồm một đài rượu và 4 cái chén; 18 cây hương (3 cây linh điện, 9 cây thượng trung hạ điện, 3 cây vong điện, 3 cây còn lại cắm vào lư hương ngoài trời).
· Đồ lộc ban: gồm rượu, thuốc lá, trầu cau, hoa trái sản vật quê nhà, bánh kẹo, chuẩn bị làm sao mà mỗi người, mỗi nhà đều nhận được lộc của Tiên tổ mang về nhà mình sau khi buổi lễ hoàn tất. Mọi thứ phải sạch sẽ và bày trước hương án trước khi hành lễ.
Tất cả phải kiểm tra cẩn thận trước giờ hành lễ.
Điển xướng điều khiển trình tự buổi lễ
Đội nhạc và Điển xướng đứng vào vị trí cánh gà bên trái, ngoài vùng phạm vi 4 chiếc chiếu lễ. Điển xướng dùng hai cái dùi trống gõ vào nhau 3 cái ra hiệu mọi người im lặng giữ trật tự, sau đó dõng dạc hô hiệu lệnh:
- Khởi chính cổ, các tam nghiêm! nghĩa là nổi ba hồi chiêng trống. Dứt ba hồi chiêng trống, cứ mỗi lần điển xướng hô xong hiệu lệnh thì đánh một tiếng trống báo hiệu hành động.
- Chủ tế, bồi tế nghệ quán tẩy sở! nghĩa là chủ tế và bồi tế bước đến bên ba thau nước, rửa tay, rửa mặt, dùng khăn thơm lau khô sạch sẽ, chỉnh trang áo xống chuẩn bị hành lễ.
- Củ soát lễ vật! nghĩa là kiểm tra lại đồ lễ, nghi thức sắp bày, chủ tế sau khi rửa tay, rửa mặt sạch sẽ thì đi một vòng kiểm tra đồ lễ cẩn thận trước khi tế lễ.
- Bồi tế tựu vị! hai bồi tế bước vào vị trí (chiếu bồi tế)
- Chủ tế tựu vị! chủ tế bước vào chiếu chủ tế
- Hành sơ hiến lễ! dâng lễ lần thứ nhất
- Nghệ hương án tiền! chủ tế tiến lên chiếu thần vị
- Thượng hương! Chấp sự đưa đến một cái khay có 18 cây hương và một đèn dầu, chủ tế thắp sáng 18 cây hương, dơ cao ngang trán vái ba vái theo nhịp trống, tất cả con trai, cháu trai trong họ mạc lúc này đứng nghiêm trang phía sau bồi tế, đàn bà con gái trải chiếu trước lư hương giữa sân, quay mặt về cửa từ đường chuẩn bị cầu nguyện. Xong ba vái, chủ tế đưa hương cho chấp sự, cắm 3 nén lên linh điện, thượng – trung – hạ điện mỗi nơi ba nén, 3 nén tại vong điện, 3 nén cuối cùng cắm vào lư hương giữa sân nhà thờ.
- Chủ tế, bồi tế nghênh thần cúc cung bái! Chủ tế và bồi tế lạy hai lạy theo tiếng trống hiệu lệnh.
- Giai quyến nghênh thần cung cúc bái! Toàn thể nam giới trong gia quyến lạy một lạy (con gái không bắt buộc phải đứng ở chỗ chấp lễ, ai muốn đứng thì phải đứng sau nam giới và ăn mặc phải chỉnh tề, sạch sẽ, không được lem nhem, hôi hám, người đang trong ngày kỵ không được hành lễ)
- Bình thân phục vị! trở lại chiếu chủ tế, đứng nghiêm
(Đồng văn nổi một hồi chiêng trống ngắn kết thúc phân cảnh)
***
- Hành á hiến lễ! Dâng lễ lần thứ hai
- Nghệ hương án tiền! chủ tế tiến lên chiếu thần vị
- Điểm trà! Rót nước mời trà, chấp sự đưa tới một khay nước gồm có 9 cái chén và một ấm nước lã, chủ tế rót ra 9 chén, chấp sự để 5 chén lên linh điện, 3 chén tại thượng – trung – hạ điện, chén thứ 9 chủ tế cầm hai tay dâng cao lên ngang trán, vái ba vái, rồi đưa chén nước từ trái sang phải như cử cử chỉ mời trà, rồi đưa cho chấp sự đem tưới vào gốc cây cổ thụ trước nhà thờ với ý nghĩa vun trồng nguồn cội.
- Chủ tế, bồi tế cúc cung bái! Chủ tế và bồi tế lạy hai lạy theo tiếng trống hiệu lệnh.
- Gia quyến cung cúc bái! Toàn thể nam giới trong gia quyến lạy một lạy (con gái không bắt buộc phải đứng ở chỗ chấp lễ, ai muốn đứng thì phải đứng sau nam giới và ăn mặc phải chỉnh tề, sạch sẽ, không được lem nhem)
- Bình thân phục vị! trở lại chiếu chủ tế, đứng nghiêm
(Đồng văn nổi một hồi chiêng trống ngắn kết thúc phân cảnh)
***
- Hành chung hiến lễ! hành lễ lần thứ 3
- Chước tửu! rót rượu
- Nghệ hương án tiền! Chủ tế bước lên chiếu thần vị, chấp sự đưa tới trước mặt một khay gồm 4 chén và một đài rượu, chủ tế rót rượu, chấp sự đặt ba chén vào Thượng – trung – hạ điện (chú ý rượu không dâng lên linh điện), chén còn lại, chủ tế dâng lên vái ba vái rồi cử chỉ mời như mời trà, sau đó rưới chén rượu lên nền nhà trước mặt.
- Độc chúc! Chuẩn bị đọc chúc văn
- Giai quỹ! Tất cả nam giới đều quỳ xuống, chỉ có chủ tế và bồi tế được đứng.
- Chuyển chúc! Chấp sự đưa chúc văn cho chủ tế, trong trường hợp chủ tế không biết chữ, thì bắt buộc phải bố trí nội tán để đọc thế, trong trường hợp này, nội tán được phép đứng (sau chủ tế nửa bước).
- Tuyên đọc! Chủ tế (hoặc người đọc thế) bắt đầu đọc sớ khấn (nội dung như mẫu ở “phần II”), sau khi chủ tế đọc xong phân văn hiệu triệu, đến phần ca chầu văn nhớ ơn công đức, thì đàn bà con gái ở ngoài sân mỗi người nên tranh thủ cầu nguyện an lành cho gia đình mình, ai có nguyện vọng gì cần tâm sự thì nói lên trong lời tự khấn.
- Phần chúc! đốt chúc văn, sau khi đọc hết các chúc văn, chấp sự đưa hoả lò tới, chủ tế đưa tờ chúc văn lên ngọn đèn đốt cháy rồi thả vào lò thiếu hoá kim ngân, chấp sự mang lò lửa ra góc vườn cùng với vàng mã trên các điện ra thiêu cùng, thiêu hoá phải đảm bảo cháy hết thành tro, tro đó đem vun bón vào cây cổ thụ trong sân nhà thờ.
- Chủ tế, bồi tế cúc cung bái! Chủ tế và bồi tế lạy hai lạy theo tiếng trống hiệu lệnh.
- Giai quyến cúc cung bái! Toàn thể nam giới trong gia quyến lạy một lạy (con gái không bắt buộc phải đứng ở chỗ chấp lễ, ai muốn đứng thì phải đứng sau nam giới và ăn mặc phải chỉnh tề, sạch sẽ, không được lem nhem)
- Bình thân phục vị! trở lại chiếu chủ tế, đứng nghiêm
(Đồng văn nổi một hồi chiêng trống ngắn kết thúc phân cảnh)
***
- Quân hiến ẩm phước! lễ ban lộc của gia tiên cho mọi người trong gia quyến, chú ý, lộc ban phải là thứ đã được để trước hương án mời gia tiên hương thụ, do đó khi chuẩn bị lễ lộc phải tính đủ.
- Nghệ ẩm phước vị! chủ tế và bồi tế bước lên chiếu thụ tộ đại diện nhận lộc tổ tiên ban tặng.
- Ẩm phước! nhận lộc uống, chấp sự lấy đài rượu trên hương án rót ba chén đưa đến cho chủ tế và bồi tế, ba vị quỳ xuống nhận rượu, vái ba vái và uống hết lý rượu.
- Thụ tộ! nhận lộc ăn, chấp sự lấy ba miếng thịt (nhỏ vừa đủ một miếng ăn gọi là), hoặc ba miếng bánh, ba miếng trầu cũng được, ra ba cái đĩa con, đưa cho ba vị chủ tế và bồi tế ăn lấy lộc. Phần lộc cúng còn lại, đem chia đều cho tất cả cháu con trong họ tộc, đảm bảo ai cũng có phần
- Tạ lễ!
- Chủ tế, bồi tế cúc cung bái! Chủ tế và bồi tế lạy hai lạy theo tiếng trống hiệu lệnh.
- Giai quyến cúc cung bái! Toàn thể nam giới trong gia quyến lạy một lạy (con gái không bắt buộc phải đứng ở chỗ chấp lễ, ai muốn đứng thì phải đứng sau nam giới và ăn mặc phải chỉnh tề, sạch sẽ, không được lem nhem)
- Bình thân phục vị! trở lại chiếu chủ tế, đứng nghiêm
- Lễ tất! hết lễ
(Đồng văn nổi một hồi chiêng trống dài kết thúc buổi tế lễ, mọi người được quyền phá cỗ liên hoan)