ĐỀ TÀI PHẢN BIỆN
CÁC NGHIÊN CỨU HIỆN NAY VỀ LỊCH SỬ CUỘC ĐỜI NGUYỄN DU
Bài viết của Phan Lan Hoa
Kỳ 3: SỰ NHẦM LẪN ĐỊA DANH MỘT CÁCH NGÂY THƠ TRONG BÀI “LONG THÀNH CẦM GIẢ CA”
***
Tôi sẽ lần lượt đặt ra một vài câu hỏi, tự khắc sẽ lộ ra những nhầm lẫn địa danh của các tiến sĩ trong bài thơ này.
1- NGUYỄN DU GẶP CÔ CẦM LẦN ĐẦU TẠI THỜI ĐIỂM LỊCH SỬ NÀO?
Tác giả viết: “Mùa xuân năm nay tôi lại phụng mệnh sang sứ Trung Quốc, đi qua Long Thành. Các bạn mở tiệc tiễn tôi ở dinh Tuyên phủ...”
Như vậy, Nguyễn Du gặp cô Cầm lần thứ hai vào năm 1813. Từ đó suy ra cuộc gặp gỡ lần đầu, theo ông nói là khoảng hai mươi năm trước, tức là vào khoảng năm 1793.
Giai đoạn lịch sử 1793: Tây Sơn năm thứ 6, nhà Lê tan rã (1787), thành Thăng Long bị Nguyễn Huệ phá tan hoang trước khi kéo quân về Phú Xuân (1788). Giai đoạn lịch sử trước nữa, dinh thự của họ Nguyễn Tiên Điền ở phường Bích Câu bị Kiêu binh đập phá tan tành từ năm 1784, Nguyễn Khản cũng đã mất năm 1786. Tức là thời điểm 1793, nhà cửa không còn, kinh đô không còn, làm sao mà Nguyễn Du có thể ngồi nghe hát tại thành Thăng Long được?
Tản mạn về nỗi gian truân của Ca trù. Từ đời Hồng Đức, Quốc triều hình luật nhà Lê đã có điều luật cấm quan chức lập hôn thú với ả đào, dù là lấy làm thiếp, hay con hầu cũng bị phạt bảy mươi trượng và bị lưu đày. Lại có lệ cấm hà khắc, con nhà xướng ca không được tham gia khoa cử. Các bộ Đồng văn, Nhã nhạc chỉ khi tế giao, hay đại lễ mới dùng đến, dẫn đến phường hát trở nên thất nghiệp, tản mát trốn tránh về các vùng quê, dấu diếm lai lịch. Đào Duy Từ lúc bấy giờ tư chất thông minh, tài trí hơn người, nhưng vì thân phận con cái giáo phường nên không được ứng thi, nên đã không cam tâm. Ông bất mãn vì luật lệ hà khắc, đã quyết định vượt đèo Ngang, bỏ chúa Trịnh theo chúa Nguyễn. Đến cuối đời nhà Lê, thì chỉ còn những ả đào già mới hát được các làn điệu trong cung (Theo “”Vũ trung tùy bút”, “Ca trù biên khảo”). Chính Uy viễn tướng công Nguyễn Công Trứ sau này, khi được bổ làm Tổng đốc tỉnh Đông (Nam Định, Hải Dương), do mê hát, đã về Cổ Đạm quê ông, tìm lại những cô đào già, đem ra Bắc. Ông tự viết lời và sai các cô đào già dạy lại lớp trẻ, phục dựng lại dòng hát Ca trù ở đất Bắc. Đó là một trong những lý do nhân dân ở xứ tỉnh Đông cho đến nay, hàng năm vẫn đội lễ về làng Cổ Đạm ở Hà Tĩnh để giỗ tổ nghề hát và giỗ Nguyễn Công Trứ. Khi Gia Long lập ngôi, đã truyền tuyển 50 giáo phường từ hai tỉnh Thanh – Nghệ vào làm đội nhạc lễ trong triều (theo Đại Nam thực lục).
Sơ qua lịch sử Ca trù, để phụ ghi thêm nội dung bàn luận. Thời điểm năm 1793, Thăng Long không còn là nơi phồn hoa như các tiến sĩ tưởng nhầm.
VẬY KINH ĐÔ MÀ NGUYỄN DU GẶP CÔ CẦM LÀ KINH ĐÔ NÀO?
Như đã nói, lúc này Nguyễn Khản đã mất, nên người anh còn lại mà có khả năng đón đào nương về hát múa chỉ có Nguyễn Nễ mà thôi (hiện tôi chưa tìm được thông tin nào trong chính sử nói về chuyện làm quan triều Tây Sơn của Nguyễn Nễ, cho nên chỉ căn cứ được vào chính thơ của Nguyễn Du kể chuyện về anh mình để biết Nguyễn Nễ làm quan tại Phú Xuân). Tại bài thơ chữ Hán: “Hoạ Hải Ông Đoàn Nguyễn Tuấn, Giáp Dần phụng mệnh nhập Phú Xuân kinh”, có câu:
“Lần nay ông vào, gặp anh tôi có hỏi
Nhờ nói lại rằng tôi đang ở bước đường cùng và tóc đã lốm đốm bạc”.
Giáp Dần, tức năm 1794. Như vậy là trùng với thời điểm Nguyễn Du vào thăm anh tại Phú Xuân. Nghĩa là Nguyễn Du gặp cô Cầm lần đầu tiên tại kinh đô Phú Xuân, chứ không phải tại Thăng Long và gặp khi cô Cầm đã hai mốt tuổi và Nguyễn Du cũng đã hai chín, ba mươi tuổi rồi, chứ không phải “thời niên thiếu” như một số tiến sĩ dịch thuật rõ ràng là gượng ép, nếu không muốn nói là bịa đặt?
Thành quách suy tàn, việc người đã khác
Biển cả nhiều nơi biến thành nương dâu
Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu tan rồi
Sót lại đây còn người múa ca.
Trăm năm như chớp mắt có là bao
Cảm thương chuyện cũ lệ thấm áo
Tôi từ phương Nam trở lại, đầu cũng đã bạc trắng
Chẳng trách nhan sắc người đẹp tàn phai
Đôi mắt trừng trừng không tưởng tượng
Thương thay đối mặt mà chẳng nhận ra nhau
“Biển cả biến thành nương dâu” là chuyện quê Tiên Điền của Nguyễn Du, chứ Thăng Long làm chi có biển? Thành quách Tây Sơn suy tàn thời cũng chỉ có ở Vinh chứ làm gì mà ở Thăng Long được? Các tiến sĩ nghiên cứu Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền lại không hay biết chính cụ Thủy tổ họ Nguyễn Tiên Điền đã biến biển cả thành nương dâu ở đất Nghi Xuân ?
VẬY LONG THÀNH LÀ CHỐN NÀO SAU HAI MƯƠI NĂM GẶP LẠI?
Sách “An Tĩnh cổ lục” – Le Breton chép:
“Các nhà biên soạn cuốn Đại Nam nhất thống chí có thiếu sót lớn là bỏ qua những điều này.
Trong những thời kỳ xa xưa, Lam Thành đã mang tên là Long Thành. Nhưng từ khi Lê Lợi chiếm được Lam Thành (1423), nhân dân An-Tĩnh đã đặt tên cho sông này là sông Lam, và cũng từ đó, các quốc sử của các triều đại vẫn gọi là Sông Lam. Năm Minh Mạng thứ 17 (1837), người ta đã chạm hình ảnh của sông Lam và các núi non bao quanh con sông vào một cái đỉnh đặt trước Thế miếu trong thành nội ở Huế; đỉnh này gọi là Tuyên. Và năm thứ 21 cũng thời Minh Mạng, sông Lam được liệt vào những con sông đẹp nhất của An Nam...”
Tác giả “Ca trù biên khảo” cho rằng bữa tiệc xảy ra tại dinh cơ của quan Tổng trấn Bắc Hà Nguyễn Văn Thành càng không đúng? Nguyễn Văn Thành về Huế lãnh ấn Trung quân từ năm 1810. Hơn nữa Nguyễn Du nói rõ là tiệc do quan Tuyên phủ tổ chức, chứ không phải quan Tổng trấn? Vậy thì người tổ chức cuộc chào đón này chỉ có thể là quan Tuyên phủ Đức Quang, vị quan nơi quê nhà Nguyễn Du mà thôi.
Tản mạn về nhân tài đất Nghi Xuân, đâu chỉ có Nguyễn Công Trứ mới là tay chơi. Cha con, anh em nhà họ Nguyễn Tiên Điền cũng là tay chơi hào hoa bậc nhất kinh thành Thăng Long một thủa, lịch sử ghi chép còn rành rành ra đó. Gia trang nhà Nguyễn Nghiễm ở phường Bích Câu bấy giờ có tới một trăm hai mươi hầu gái, thì mức độ xa hoa có thua gì ai đâu. Khác chăng là tham vọng quyền lực không đến độ tiếm quyền vua mà thôi. “Đêm hội Long Trì”, hàng quan lại chỉ có mình Nguyễn Khản được ngồi cạnh chúa. “Vũ trung tùy bút” của Phạm Đình Hổ dành nguyên một bài viết về “Nhà họ Nguyễn ở Tiên Điền”. Có đoạn:
“... Khi chúa Trịnh thưởng ca, thường sai Nguyễn Khản ngồi hầu. Ông được đội khăn lương, mặc thường phục, ngồi ngay bên cạnh, cầm chầu điểm hát. Những ngày rỗi, chúa Trịnh lên ngự chơi hồ Tây, kẻ thị thần vệ sĩ bày hàng quanh cả bốn mặt hồ, nhà chúa chỉ cùng bà Đặng Tuyên Phi ngồi trên thuyền, mà Nguyễn Khản thì ngồi hầu ngang trước mặt, cùng thưởng lãm, cười nói, không khác gì bạn bè, người nhà. Trong cung có bày bể cạn, núi non bộ và cảnh hoa đá gì, đều phải qua tay ông Nguyễn Khản chăm sóc, thì mới vừa ý chúa. Nhà chúa lại thường sai ông đi sửa sang các hành cung ở Châu Long, Tử Trầm, Dũng Thúy. Ông có tài đục nặn núi đá, vẽ vời phong hoa, nên thường được nhà chúa ban khen. Ông lại thích nghề hát xướng, sành âm luật, thường đặt những bài hát điệu nhạc phủ, làm ra điệu hát mới; viết xong bài nào, thì những nghệ sĩ ngoài giáo phường tranh nhau truyền tụng. Ta có câu thơ rằng: “Án phách tân truyền lại bộ ca” (nghĩa là gõ phách truyền tụng bài hát mới của quan lại bộ) chính là chỉ việc ấy...”
Cho nên, Nguyễn Du xuất thân đâu chỉ có là con nhà nòi về văn võ, về quan trường, mà còn là nghệ sĩ con nhà nòi nữa. Nghe mà nhận ra tay đàn của hai mươi năm trước, thì chỉ có người sành nhạc mới là.
Năm cung réo rắt theo ngón tay đàn mà đổi điệu
Tiếng khoan như gió thoảng qua rừng thông
Tiếng trong như đôi chim hạc kêu lúc canh khuya
Tiếng mạnh như sét đánh tan bia Tiến Phúc
Tiếng buồn như Trang Tích rên rỉ bằng tiếng Việt lúc ốm đau
(Long Thanh Cầm giả ca – bản dịch nghĩa Nguyễn Quảng Tuân)
Đem so sánh với tiếng đàn Thúy Kiều, sẽ thấy tiếng đàn Thúy Kiều thực chất là tiếng đàn của cô Cầm. Còn như tiếng đàn cô Vương Thúy Kiều ở triều Minh bên Trung Quốc, người Việt Nam chả ai biết được nó ra sao?
Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như nước suối mới sa nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa
(Truyện Kiều thơ Nôm- Nguyễn Du)
Và đây nữa, chẳng phải là sắc đẹp và thân phận nàng Kiều sao?
Như cánh hoa thắm từ cõi tiên xuống,
Sắc đẹp uyển chuyển làm rung động cả Lục Thành (1)
Thiên hạ ai kẻ thương người bạc mệnh?
Dưới mồ, chắc cũng hối hận cho kiếp phù sinh.
Lúc sống, phấn son không rửa được nghiệp chướng,
Chết rồi chỉ để lại tiếng gió trăng mà thôi.
Chắc nghĩ rằng trên đời không ai hiểu được mình,
Nên xuống suối vàng làm bạn với ông Liễu Kỳ Khanh
(Điếu La Thành giả ca – Bản dịch nghĩa Quách Tấn )
Một thói quen không chỉ riêng Nguyễn Du, mà dường như một trăm phần trăm nho sĩ Việt Nam từ xưa cho đến bây giờ vẫn vậy, đó là cứ hễ có một nhân vật, một điển tích ở Việt Nam, thì ngay lập tức phải tìm một nhân vật, một điển tích nào đó tương tự ở bên Trung Quốc để so sánh. Cách đây dăm sáu năm, tôi đã từng lên tiếng về thói quen nô lệ này. Thiết nghĩ, nho sĩ xưa vì bị đầu độc ngay trong giáo dục mà nên nỗi, nho sĩ đời nay của nước Việt Nam độc lập, lại vẫn muốn tự nguyện làm chư hầu hay sao? Thơ của Nguyễn Du rất nhiều tích truyện Trung Quốc. Đây là do giáo dục thời xưa ở nước chư hầu. Sách văn, sách sử Việt Nam bị nhà Minh đốt sạch và bắt ép phải học sử sách Trung Hoa. Nguyễn Du mượn danh Vương Thúy Kiều Trung Quốc, nhưng nơi chốn lại là “Xăm xăm đè nẻo Lam cầu lần sang”, năm rõ mười từng có một nàng Kiều tại Nghệ An “Xuân sắc yên nhiên động Lục Thành” và cả cầu Lam nữa. đều là những địa danh trong lịch sử Nghệ An. Quách Tấn dịch “Lục Thành” là “sáu thành”, có lẽ vì ông không biết ở Nghệ An có Lục Thành. Ngoài Lục Thành là thành trì 6 cạnh 12 chốt gác, sau do chính vua Gia Long tu bổ thành trì tính chuyện đóng đô; Nghệ An còn có Lục Niên Thành, là kinh đô sáu năm kháng chiến chống quân Minh tại đất Lam Sơn (Nghệ An) của Lê Lợi. Đến triều Tây Sơn, Lục Niên Thành là thư viện quốc gia Đại Việt do La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp đứng đầu. “Điếu La Thành giả ca” là câu trả lời như vậy. Nàng Kiều ở Lục Thành cũng đồng triều đại nhà Minh. Cho nên tiến sĩ nào đồng thuận ý kiến với ông Đổng Văn Thành, chẳng qua là yếu kém về môn lịch sử Việt Nam, đọc thơ Kiều mà lại chẳng thấu hiểu nỗi lòng Nguyễn Du. Tiểu thuyết “Kim Vân Kiều truyện – Thanh Tâm Tài Nhân” chẳng qua là một cuốn sách viết lại theo nội dung Truyện Kiều thơ Nôm của Nguyễn Du!
Nỗi niềm tưởng đến mà đau (109)
Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm (384)
Bấy nhiêu đủ để chỉ ra sự nhầm lẫn không chỉ địa danh, mà nhầm lẫn nhiều nội dung khác, tôi sẽ còn tiếp tục phản biện ở đề tài “Hành trạng cô Kiều”. Dưới đây là nguyên bản chữ Hán và bản dịch bài “Long Thành Cầm giả ca” của nhà Kiều học Nguyễn Quảng Tuân Tôi có sửa chữa một vài chỗ theo sự hiểu biết của cá nhân. Cụ thể:
Hồ giám tôi viết thường chứ không viết hoa, vì thực chất không phải tên riêng của hồ, mà là hồ trước nhà giám trong đại nội Huế. Hoặc câu dưới đây:
Khí hào hoa lấn lướt bậc vương hầu
Bọn thiếu niên đất Ngũ Lăng chi sá kể
Tưởng đem ba mươi sáu cung xuân
Đổi ngang bảo vật vô giá đất Trường An
Xem qua cả bài thì tôi hiểu, Nguyễn Du sử dụng một số điển tích của Trung Quốc để so sánh: Sét đánh bia Tiến Phúc, Trang Tích lúc đau ốm rên rỉ tiếng Việt, bọn thiếu niên chơi bời ở đất Ngũ Lăng. Và Trường An này là bên Trung Quốc, chứ không phải Tràng An ở Ninh Bình. Tôi không hiểu báu vật ở đất Trường An (Trung Quốc) là gì, nhưng câu chữ rõ ràng là Nguyễn Du muốn so sánh tiếng đàn của cô Cầm quý giá hơn cả bảo vật được coi là vô giá ở bên Trung Quốc.
***
LONG THÀNH CẦM GIẢ CA
(Người gảy đàn ở Long Thành)
Tác giả: Nguyễn Du
Dịch nghĩa: Nguyễn Quảng Tuân
Bản chữ Hán và phiên âm từ thivien. net
***
1. Người đẹp Long Thành
2. Họ tên không được biết
3. Riêng thạo ngón đàn Nguyễn cầm
4.Người trong thành lấy chữ “Cầm” gọi tên nàng
5. Nàng học được khúc “Cung phụng” từ triều vua xưa
6. Đó là một khúc nhạc hay nhất tưởng chừng như từ trên trời đưa xuống trần gian.
7. Tôi nhớ lúc trẻ đã từng gặp nàng một lần
8. Bên hồ giám trong một cuộc dạ yến
9. Lúc ấy nàng còn trẻ, tuổi chừng hai mươi mốt
10. Áo hồng cũng mờ nhạt đi trước vẻ mặt hoa đào
11. Má hồng men rượu, dáng ngây thơ rất đáng yêu
12. Năm cung réo rắt theo ngón tay đàn mà đổi điệu
13. Tiếng khoan như gió thổi qua rừng thông
14. Tiếng trong như đôi chim hạc kêu lúc canh khuya
15. Tiếng mạnh như sét đánh tan bia Tiến Phúc
16. Tiếng buồn như Trang Tích ngâm tiếng Việt lúc ốm đau
17. Người nghe mê mệt không biết mỏi
18. Đó là khúc nhạc trong đại nội Trung Hòa
19. Các quan Tây Sơn thảy đều nghiêng ngả
20. Truy hoan suốt đêm không nghỉ
21. Tả hữu đua nhau ném thưởng
22. Tiền bạc coi rẻ như bùn đất
23. Khí hào hoa lấn lướt bậc vương hầu
24. Bọn thiếu niên đất Ngũ Lăng chi sá kể (1)
25. Tưởng đem ba mươi sáu cung xuân
26. Đổi ngang bảo vật vô giá đất Trường An *
27. Nhớ lại chuyện cũ hai mươi năm trước
28. Tây sơn thua bại, tôi vào Nam
29. Long Thành tuy gần, mà không thường lui tới được
30. Còn nói chi đến chuyện tiệc múa hát trong thành.
31. (Này)Quan Tuyên phủ vì tôi mà bày cuộc vui
32. Trong tiệc, các ca nương đều trẻ
33. Riêng cuối chiếu hát có một người tóc đã hoa râm
34. Mặt xấu, thần sắc khô, người hơi nhỏ
35. Đôi mày phờ phạc không điểm phấn tô son
36. Ai biết đâu rằng đó chính là người tài danh bâc nhất của kinh thành ngày xưa
37. Khúc xưa giọng mới lệ thầm rơi
38. Lắng tai nghe lòng càng đau xót
39. Chợt nhớ lại chuyện hai mươi năm trước
40. Bên bờ hồ giám trong dạ tiệc tôi đã thấy nàng
41. Thành quách suy tàn, việc người đã khác
42. Nương dâu nhiều nơi biến thành biển cả
43. Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu tan rồi
44. Sót lại đây còn người múa ca.
45. Trăm năm như chớp mắt có là bao
46. Cảm thương chuyện cũ lệ thấm áo
47. Tôi từ phương Nam trở lại, đầu cũng đã bạc trắng
48. Chẳng trách nhan sắc người đẹp tàn phai
49. Đôi mắt trừng trừng không tưởng tượng
50. Thương thay đối mặt mà chẳng nhận ra nhau
“Người gảy đàn ấy không rõ họ tên là gì. Chỉ nghe thuở nhỏ, nàng học đàn Nguyễn trong bộ nữ nhạc ở cung vua Lê. Tây Sơn dấy binh, đội nhạc cũ chết chóc, tản mác. Nàng lưu lạc nơi đầu chợ, ôm đàn hát rong. Những bài nàng đàn, đều những khúc gảy hầu nhà vua, người ngoài không ai được nghe, cho nên nàng được khen là “tuyệt kỹ” của một thời.
Tôi hồi trẻ đến kinh đô thăm anh tôi, đêm trọ ở quán bên hồ giám. Cạnh đấy các quan Tây Sơn tụ hội bọn con hát; con hát nổi tiếng không dưới vài chục người. Nàng riêng thạo đàn Nguyễn, hát cũng hay, lại khéo pha trò. Người xem đều mê mẩn, nhiều lần thưởng cho nàng những chén rượu lớn, nàng tức thì uống cạn, tiền lụa thưởng nhiều vô kể, chất đầy mặt đất.
Tôi lúc ấy nấp trong bóng tối, không trông rõ lắm. Sau gặp nàng ở nhà anh tôi. Nàng không đẹp lắm, người thấp, má phính, má phính, trán dô, mặt gãy, người đẫy đà, khéo trang điểm, mày nhạt phấn đậm, áo màu hồng, quần lụa đen biếc, phong nhã tươi tắn. Nang hay uống rượu, thích hài hước, mắt long lanh, chẳng hề để ý đến một ai. Ở nhà anh tôi mỗi lần uống dượu đều say, nôn mửa cả ra, nằm dài trên đất, bạn bè cũng không để tâm chê trách. Sau đó vài năm tôi dời vào Nam và từ đó không trở lại Thăng Long nữa.
Mùa xuân năm nay, tôi phụng mệnh sang sứ phương Bắc, trên đường qua Long Thành, các quan có đặt tiệc tiễn tôi ở dinh Tuyên phủ nên cho gọi hết nữ nhạc trong thành, con hát đến mấy chục người, tôi đều không biết mặt biết tên. Họ thay nhau ca múa. Rồi nghe vút lên một khúc đàn cầm trong trẻo, nghe khác hẳn các khúc nhạc đương thời. Tôi lấy làm lạ nhìn người đàn, thì thấy người gầy võ, thần sắc khô khan, mặt đen, xấu như quỷ, quần áo toàn bằng vải thô, bạc phếch, vá nhiều mảnh trắng, ngồi lặng lẽ cuối chiếu, không nói không cười, hình dáng khó coi quá. Tôi không biết là ai, duy nghe tiếng đàn thì dường như đã quen biết nên động lòng trắc ẩn. Tiệc tan, hỏi đến người chơi đàn thì ra chính người gảy đàn ngày xưa ấy. Than ôi! Người ấy sao đến nỗi này! Tôi bồi hồi ngẩng lên cúi xuống, không thiết cảm thương cho sự đổi thay xưa và nay. Đời người trăm năm, vinh nhục buồn vui khó có thể nào lường được. Sau khi từ biêt, suốt trên đường đi tôi cảm xúc vô hạn, nên làm bài ca để gửi mối cảm hứng”.
Phiên âm
LONG THÀNH CẦM GIẢ CA
Long thành giai nhân,
Bất ký danh tự.
Ðộc thiện huyền cầm,
Cử thành chi nhân dĩ cầm danh.
Học đắc tiên triều cung trung “Cung phụng” khúc,
Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh.
Dư tại thiếu niên tằng nhất kiến,
Giám Hồ hồ biên dạ khai yến.
Thử thời tam thất chánh phương niên,
Xuân phong yểm ánh đào hoa diện.
Ðà nhan hám thái tối nghi nhân,
Lịch loạn ngũ thanh tuỳ thủ biến.
Hoãn như luơng phong độ tùng lâm,
Thanh như chích hạc minh tại âm.
Liệt như Tiến Phúc bi đầu toái phích lịch,
Ai như Trang Tích bịnh trung vi Việt ngâm.
Thính giả mỹ mỹ bất tri quyện,
Tận thị Trung Hoà Ðại Nội âm.
Tây Sơn chư thần mãn toạ tận khuynh đảo,
Triệt dạ truy hoan bất tri hiểu.
Tả phao hữu trịch tranh triền đầu,
Nê thổ kim tiền thù thảo thảo.
Hào hoa ý khí lăng công hầu,
Ngũ Lăng niên thiếu bất túc đạo.
Tính tương tam thập lục cung xuân,
Hoán thủ Trường An vô giá bảo.
Thử tịch hồi đầu nhị thập niên,
Tây Sơn bại hậu dư Nam thiên.
Chỉ xích Long Thành bất phục kiến,
Hà huống thành trung ca vũ diên.
Tuyên phủ sứ quân vị dư trùng mãi tiếu,
Tịch trung ca kỹ giai niên thiếu.
Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa,
Nhan xú thần khô hình lược tiểu.
Lang tạ tàn my bất sức trang,
Thuỳ tri tiện thị đương niên thành trung đệ nhất điệu.
Cựu khúc tân thanh ám lệ thuỳ,
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi.
Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự,
Giám Hồ hồ biên tằng kiến chi.
Thành quách suy di nhân sự cải,
Kỷ độ tang điền biến thương hải.
Tây Sơn cơ nghiệp nhất đán tận tiêu vong,
Ca vũ không lưu nhất nhân tại.
Thuấn tức bách niên tằng kỷ thì,
Thương tâm vãng sự lệ triêm y.
Nam Hà quy lai đầu tận bạch,
Quái để giai nhân nhan sắc suy.
Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng,
Khả liên đối diện bất tương tri.
Long Thành Cầm giả, bất tri tính thị. Văn kỳ ấu niên tòng học bát Nguyễn cầm ư Lê cung Hoa tần bộ trung. Tây Sơn binh khởi, cựu nhạc tử tán, kỳ nhân lưu lạc thị triền, hiệp kỹ dĩ ngao, thuộc tản bộ. Sở đàn giai ngự tiền cung phụng khúc, phi ngoại nhân sở văn, toại xưng nhất thời tuyệt kỹ. Dư thiếu thời, thám huynh để kinh, lữ túc Giám hồ điếm. Kỳ bàng Tây Sơn chư thần đại tập nữ nhạc, danh cơ bất hạ sổ thập. Kỳ nhân độc dĩ Nguyễn cầm thanh thiện trường. Phả năng ca, tác bài hài ngữ, nhất toạ tận điên đảo. Sác thưởng dĩ đại bạch, Triếp tận, triền đầu vô toán, kim bạch uỷ tích mãn địa. Dư thời nặc thân ám trung, bất thậm minh bạch. Hậu kiến chi huynh xứ, đoản thân khoát kiểm, ngạch đột diện ao, bất thậm lệ, cơ bạch nhi thể phong, thiện tu sức, đạm mi nùng phấn, ý dĩ hồng thuý tiêu thường, xước xước nhiên hữu dư vận. Tính thiện ẩm, hỉ lãng hước, nhãn hoắc hoắc, khuông trung vô nhất nhân. Tại huynh gia mỗi ẩm triếp tận tuý, ẩu thổ lang tạ, ngoạ địa thượng, đồng bối phi chi bất tuất dã. Hậu sổ tải, Dư tòng gia nam quy, bất đáo Long Thành nhược thập niên hĩ. Kim xuân tương phụng mệnh Bắc sứ, đạo kinh Long Thành. Chư công nhục tiễn vu Tuyên phủ nha, tất triệu tại thành nữ nhạc, thiếu cơ sổ thập, tịnh bất thức danh diện, điệt khởi ca vũ, kế văn cầm thanh thanh việt, quýnh dị thời khúc, tâm dị chi. Thị kỳ nhân, nhan sấu thần khô, diện hắc, sắc như quỷ, y phục tịnh thô bố, bại hôi sắc, đa bạch bổ, mặc toạ tịch mạt, bất ngôn diệc bất tiếu, kỳ trạng đãi bất kham giả, bất phục tri vi thuỳ hà. Duy vu cầm thanh trung tự tằng tương thức, trắc nhiên vu tâm. Tịch tán, chất chi nhạc nhân, tức kỳ nhân dã. Ta hồ! Thị nhân hà chí thử da! Phủ ngưỡng bồi hồi, bất thắng kim tích chi cảm. Nhân sinh bách niên, vinh nhục ai lạc, kỳ khả lượng da. Biệt hậu, nhất lộ thượng, thâm hữu cảm yên, nhân ca dĩ thác hứng.
龍城琴者歌
龍城佳人,
不記名字。
獨善絃琴,
舉城之人以琴名。
學得先朝宮中供奉曲,
自是天上人間第一聲。
余在少年曾一見,
監湖湖邊夜開宴。
此時三七正芳年,
春風掩映桃花面。
酡顏憨態最宜人,
歷亂五聲隨手變。
緩如涼風度松林,
清如隻鶴鳴在陰。
烈如荐福碑頭碎霹靋,
哀如莊舄病中為越吟。
聽者靡靡不知倦,
盡是中和大內音。
西山諸臣滿座盡傾倒,
徹夜追歡不知曉。
左拋右擲爭纏頭,
泥土金錢殊草草。
豪華意氣凌公侯,
五陵年少不足道。
并將三十六宮春,
換取長安無賈寶。
此夕回頭二十年,
西山敗後余南遷。
咫尺龍城不復見,
何況城中歌舞莚。
宣撫使君為余重買笑,
席中歌妓皆年少。
席末一人髮半華,
顏醜神枯形略小。
狼藉殘眉不飾粧,
誰知便是當年城中第一調。
舊曲新聲暗淚垂,
耳中靜聽心中悲。
猛然億起二十年前事,
監湖湖邊曾見之。
城郭推移人事改,
幾度桑田變蒼海。
西山基業一旦盡消亡,
歌舞空留一人在。
瞬息百年曾幾時,
傷心往事淚沾衣。
南河歸來頭盡白,
怪底佳人顏色衰。
雙眼瞪瞪空想像,
可憐對面不相知。
龍城琴者。不知姓氏。聞其幼年從學撥阮琴於黎宮花嬪部中。西山兵起。舊樂死散。其人流落市廛。挾技以遨。屬散部。所彈皆御前供奉曲。非外人所聞。遂稱一時絕技。余少時。探兄抵京。旅宿鑑湖店。其傍西山諸臣大集女樂。名姬不下數十。其人獨以阮琴聲擅場。頗能歌。作俳諧語。一坐盡顚倒。數賞以大白。輒盡。纏頭無算。金帛委積滿地。余時匿身暗中。不甚明白。後見之兄處。短身闊臉。額凸面凹。不甚麗。肌白而體豐。善修飾。淡眉濃粉。衣以紅翠綃裳。綽綽然有餘韻。性善飲。喜浪謔。眼矐矐。眶中無一人。在兄家每飲輒盡醉。嘔吐狼藉。臥地上。同輩非之。不恤也。後數載。余從家南歸。不到龍城若十年矣。今春將奉命北使。道經龍城。諸公辱餞于宣撫衙。畢召在城女樂。少姬數十。並不識名面。迭起歌舞。繼聞琴聲清越。迥異時曲。心異之。視其人。顏瘦神枯。面黑。色如鬼。衣服並粗布。敗灰色。多白補。默坐席末。不言亦不笑。其狀殆不堪者。不復知爲誰何。惟於琴聲中似曾相識。側然于心。席散。質之樂人。即其人也。嗟乎。是人何至此耶。俯仰徘徊。不勝今昔之感。人生百年。榮辱哀樂其可量耶。別後。一路上。深有感焉。因歌以托興。