CÚNG DÂNG SAO GIẢI HẠN
HIỂU NHƯ THẾ NÀO CHO ĐÚNG
Phan Lan Hoa
٭٭٭
Tôi xin bàn về vấn đề này với tư cách người nghiên cứu tâm linh đã nhiều năm. Đồng thời là người đã có thời gian tu luyện để thu được ngoại cảm trên mười đầu ngón tay, đã đưa vào áp dụng thực tế, chữa được một số bệnh hiểm nghèo cho mọi người. Tư tưởng của tôi là tôn trọng kinh nghiệm truyền đời của cổ nhân và cố gắng kết nối Tâm linh với Khoa học. Hi vọng những bài viết về Tâm linh của tôi là thông tin đầu mối cho đề tài nghiên cứu Khoa học, tiến đến có thể giải thích hiện tượng Tâm linh trên nền tảng Khoa học.
Nguồn gốc cúng sao giải hản từ đâu?
Các diễn đàn mạng xã hội đang bàn luận sôi nổi về chuyện cúng dâng sao giải hạn. Cần khẳng định nó từ các nhà chùa mà ra. Nhưng vài năm gần đây, chắc là vì sự náo loạn chùa chiền của phật tử, bị xã hội tố giác, tai tiếng quá nên TW Hội Phật giáo lên tiếng phủ nhận việc cúng dâng sao không có trong lý thuyết Phật giáo. Phủ nhận, nhưng không cấm đoán, vẫn để các chùa thu tiền cúng sao như là một món lợi lớn nhất của nhà chùa trong năm? Khảo sát thực tế cho thấy, nội dung về cúng sao giải hạn được in hàng năm trong các cuốn “Lịch vạn niên”, do các nhà chùa in ấn phát hành. Ban đầu thì sách có ở các chùa tại Sài Gòn, sau thì trong những ngày năm mới, chùa nào cũng có. Nội dung in rải rác, mỗi năm một ít. Tôi phải tập hợp nhiều quyển lịch vạn niên của nhiều năm, thì mới có được nội dung để bàn.
Sách không nói rõ nguồn gốc hủ tục cúng sao từ đâu, nhưng dường như nó là hủ tục xuất phát ở nước Ta, chứ không phải của Tàu? Các sách Tàu đều không ghi chép hủ tục này? Trước thập kỷ 80, ở miền Bắc không có hủ tục này. Nhưng các thôn làng đều có thầy cúng. Vị này đảm trách việc giải hạn trong nhân dân. Lời khấn tấu bí mật không ai biết, nên không chắc có phải là chòm sao Kiết Hung? Chỉ biết lễ cúng thường có tờ hình nhân thế mạng.
Tôi thì tôi cho rằng hạn sao Kiết Hung có lẽ được biến tướng từ thuyết Cửu tinh. Mà Cửu tinh – Bát quái, vốn được sử sách ghi chép rằng nó xuất hiện lần đầu trên lưng con rùa của Dân tộc Việt Thường, được sứ giả Việt Thường đưa sang nhà Chu làm vật ngoại giao trao đổi kinh nghiệm trị Thiên, bảo vệ mùa màng cho bá tính. Lần đi sứ ấy trong chính sử Ta – Tàu đều chép là năm 1110 Trước CN. Sau này, Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm viết thành sách, có thêm sức ảnh hưởng của chòm sao Bắc Đẩu, nhưng sách của Trạng nói rõ, đó là kinh nghiệm của cha ông người Lạc Việt mà Trạng tích lũy lại. Tôi xin nhấn mạnh là thuật toán của tiên tổ tộc người Lạc Việt. Cần phân biệt khái niệm Bách Việt và Lạc Việt là khác nhau. Cửu tinh – Lạc thư và nền Văn hóa Đông Sơn là của Dân tộc Lạc Việt! Nôi sinh đã được các nhà khoa học khảo cổ khẳng định là tại các vùng hạ lưu sông Lam – sông Mã – sông Hồng.
Tôi nghĩ, phát ngôn của các tri thức học cần phải bình tĩnh, suy nghĩ chín chắn, nhìn nhận công tâm và đặc biệt là phải thể hiện mình từng có nghiên cứu mới nên nói. Không nên tỏ vẻ ta đây là người tiến bộ, từng học Tây, học Mỹ mà buông lời phỉ báng. Phát ngôn là để tránh nạn lừa đảo u mê dị đoan, nhưng đồng thời phải bảo tồn được tập tục cổ truyền, vì có nó mới có bản sắc Dân tộc. Trên thực tế, suốt mấy ngàn năm lịch sử, người dân Á Đông đã dựa vào khoa chiêm tinh học để dự đoán thời tiết, chống chọi với thiên nhiên, bảo vệ và duy trì cuộc sống trên trái đất. Cúng sao trở thành tập tục có lẽ vì hai lý do: Nhân dân tin rằng có thần linh và vì sức người bất lực. Cổ nhân biết về sự ảnh hưởng của các chòm sao, nhưng không biết làm cách nào để chống lại năng lượng bất lợi của sao, nên đành chỉ biết gửi lời nguyện cầu, cầu xin tha mạng tới các vì tinh tú.
Tôi không thuộc hai nhóm người phỉ báng, hay mê tín. Mà tôi là người nghiên cứu tâm linh. Tôi cũng trải qua thực nghiệm, có năm tự cúng, có năm lên đền nhờ cúng, có năm không cúng, hoặc lên đền đăng ký rồi lại không lên nhận lễ để cúng. Là người nghiên cứu, tôi cần phải trải qua thực nghiệm mới hy vọng biết được điều gì. Nên lý giải của tôi hy vọng sẽ dung hòa được Tâm linh và Khoa học.
Sách của người xưa ghi chép rõ ngày giờ đăng viên của các chòm sao. Theo cổ nhân, khi chòm sao sáng nhất, thì sự ảnh hưởng của nó tới trần gian nhiều nhất. Cổ nhân cũng cho rằng, ngày giờ mỗi con người sinh ra, đều bị ràng buộc bởi năng lượng của khoảng 141 ngôi sao và chòm sao chiếu mệnh. Tùy thuộc vào ngày, giờ đó ngôi sao, chòm sao nào sáng nhất thì ảnh hưởng nhiều nhất.
Đã đọc khá nhiều sách chiêm tinh, cũng kha khá thời gian tu tập. Tôi hiểu rằng các nguồn năng lượng chiếu rọi của các tinh tú tạo nên hợp chất riêng của từng sinh linh, khiến cho tính cách mỗi người đều khác. Cổ nhân đã đúc rút theo chu kỳ vận hành của 9 chòm sao Kiết Hung và sự ảnh hưởng của nó tới sức khỏe và rủi may của con người. Tôi cho rằng các nhà khoa học nên xem đây là đầu mối nghiên cứu, không nên phỉ báng. Nghiên cứu để tìm cách ngăn ngừa thảm họa cho sự sống Trái đất.
Chả phải giải thích của các nhà khoa học cũng tương đồng như vậy sao?
Các nhà khoa học cho rằng lượng nguyên tố hóa học của mỗi ngôi sao có khác nhau, thậm chí có những nguyên tố hóa học có ở ngôi sao này mà không có ở ngôi sao kia. Thời điểm ngôi sao sáng nhất, đồng nghĩa là khi nó ở gần trái đất nhất và có ảnh hưởng đến sự sống trên trái đất. Ví dụ như có thể gây nên hạn hán, lũ lụt, động đất, nhưng cũng có thể là ảnh hưởng tốt như mưa thuận gió hòa, con người mạnh khỏe vv…
Do đó, tôi cho rằng không đủ cơ sở để chứng minh việc cúng sao là có thể giải được hạn. Tuy vậy những ai còn chưa thực sự thoát khỏi mê tín, đang trong tình trạng nửa tin nửa ngờ, thấy lo sợ bất ổn, thì việc dâng một mâm lễ trai đàn giải hạn cũng không tốn kém gì, cốt là tự trấn an tinh thần cho mình và người thân cũng không sao. Cứ coi như liều thuốc an thần cho bản thân cũng tốt.
Còn nếu quý vị tự tin, cảm thấy cúng quẩy là vô tác dụng. Dẫu vậy, thì tôi vẫn đưa ra lời khuyên: Năng lượng của các chòm sao ảnh hưởng đến sức khỏe của mình là chuyện có thật. Chí ít, nhớ ngày giờ đăng viên của các chòm sao theo kinh nghiệm của các cổ nhân để lại. Để ra ngoài trời đón năng lượng, hoặc ở trong nhà tránh nguồn năng lượng có hại cho mình cũng là một cách vậy.
Nhân bàn luận và nhân năm mới cả xã hội đang gặp hạn nhân tai, Covid hoành hành khắp trái đất. Để lòng người tránh được lo sợ không đáng có vì không thể lên chùa cầu nguyện. Tự mình giải hạn tại gia cũng là một cách trấn an. Từ lòng thành tâm nguyện, tôi biên soạn nội dung này, chia sẻ tới mọi người, kinh mong an lành vạn sự!
CHÍN CHÒM SAO KIẾT HUNG
Chu kỳ mỗi 9 năm tuổi đời của mỗi người lần lượt bị chiếu mệnh bởi 9 chòm sao, sự chiếu sao có cát, có hung, nên gọi là “sao hạn kiết hung”.
Bát đồ sao Kiết Hung


THƠ PHÚ ĐOẠN SAO HẠN KIẾT HUNG
La Hầu tháng bảy, tháng giêng
Ai ơi cẩn thận tai khiên đến mình
Thổ Tú, lắm chuyện bực mình
Tháng tư, tháng tám rập rình thị phi
Sao Thái Bạch, xấu kể chi
Cả năm trùng kị, gắng ghi đề phòng
Thủy Diệu tài lộc trùng phùng
Nhưng mà phải kỵ nước sông tàu thuyền
Thái Dương chúa tể Nhật cung
Tốt cho nam giới vận thông sắc tài
Nhằm mà Vân Hán rọi soi
Tháng hai, tháng tám xảy hoài thị phi
Kế Đô sao ấy dữ ghê
Nạn tai ba, chín sầu bi khóc thầm
Nguyệt cung hoàng hậu Thái âm
Đàn bà con gái cả năm vận nhàn
Tới sao Mộc Đức vui an
Nội trong tháng chạp đăng quang phước lành.
Ý NGHĨA TỐT XẤU CỦA CÁC CHÒM SAO KIẾT HUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP BÀY TRÍ CÚNG SAO
SAO THÁI DƯƠNG
- Tên gọi: Đức Nhật cung Thái Dương Thiên Tử tinh quân
- Đăng viên (thời điểm sáng nhất) lúc: 21 – 23 giờ ngày 27 âm lịch hàng tháng ở hướng chính Đông, chòm sao này có 21 ngôi sao nhỏ (như trong hình vẽ). Sao Thái Dương rất tốt với đàn ông, nhưng đàn bà thì làm việc gì thì dù tốt cũng không nên thái quá.
- Nghênh sao: mặc áo vàng, đỏ, tọa thiền hướng Đông dưới vùng trời quang quạnh vào ngày giờ đăng viên.
- Bài vị cúng dâng sao (nếu muốn): Dùng tờ giấy màu vàng, chữ đỏ để viết sớ cúng, thắp 21 ngọn đèn giữa trời vào giờ trên cùng với hương, đăng, hoa, quả, nước, vàng mã và một tờ hình nhân thế mạng, quay về hướng chính Đông để khấn;
SAO THÁI ÂM
- Tên gọi: Đức Nguyệt cung Thái Âm Hoàng Hậu tinh quân
- Đăng viên lúc: 19 – 21 giờ ngày 26 âm lịch hàng tháng tại hướng chính Tây, chòm sao này có 7 ngôi sao nhỏ.
- Nghênh sao: mặc áo trắng, tọa thiền hướng Tây dưới vùng trời quang quạnh vào ngày giờ đăng viên. Thái Âm là đại cát tinh, chủ về độ trì, rất tốt cho cầu nguyện điều ước.
- Bài vị cúng dâng sao (nếu muốn): Dùng tờ giấy màu trắng, chữ đỏ để viết sớ cúng, thắp 7 ngọn đèn, cùng với hương, đăng, hoa, quả, nước, vàng mã và một tờ hình nhân thế mạng, cúng về hướng chính Tây
SAO MỘC ĐỨC
- Tên gọi: Đức Đông phương Giáp Ất Mộc Đức tinh quân
- Đăng viên: 19 – 21 giờ ngày 25 âm lịch hàng tháng tại hướng Giáp - Ất, chòm sao Mộc Đức có 20 ngôi sao nhỏ;
- Nghênh sao: mặc áo xanh, tọa thiền hướng Giáp, Ất dưới vùng trời quang quạnh vào ngày giờ đăng viên. Sáng nhất vào ngày giờ trên ở tháng một, chạp. Mộc Đức là ngôi sao đại an, chủ về phước lành, hòa hợp.
- Bài vị cúng nghênh sao (nếu muốn): dùng tờ giấy màu xanh, chữ đỏ để viết sớ cúng, thắp 20 ngọn đèn về hướng Giáp, Ất, cùng với hương, đăng, hoa, quả, nước, vàng mã và một tờ hình nhân thế mạng, cúng vào ngày giờ sao đăng viên.
SAO VÂN HÁN:
- Tên gọi: Đức Nam phương Bính Đinh Hỏa Vân Hán tinh quân
- Đăng viên: 21 – 23 giờ ngày 29 âm lịch hàng tháng tại hướng Bính, chòm sao Vân Hán có 18 ngôi
- Kiêng kị: mặc áo đỏ, vàng và kiêng kị ra đường vào giờ đăng viên. Kị nhất là ngày giờ này trong tháng 2 và tháng 8. Vân Hán chỉ là tiểu hung tinh, chủ về điều tiếng thị phi.
- Bài vị cúng giải hạn (nếu muốn): Phải nhờ người khác cúng, dùng tờ giấy hồng, chữ đỏ viết sớ cúng, thắp 18 ngọn đèn hướng bính, cùng với hương, đăng, hoa, quả, nước, vàng mã và một tờ hình nhân thế mạng, cúng vào ngày giờ sao đăng viên.
SAO THỔ TÚ
- Tên gọi: Đức Trung ương Mậu Kỷ Thổ Tú tinh quân
- Đăng viên: 21 – 23 giờ ngày 19 âm lịch hàng tháng tại hướng Mậu – Kỷ, chòm sao thổ tú có 9 ngôi;
- Kiêng kị: mặc áo vàng, đỏ và kiêng kị ra đường vào giờ sao đăng viên. Kị nhất ngày giờ này ở tháng tư, tháng tám. Thổ Tú là tiểu hung tinh, chủ về rắc rối bực mình, mất đoàn kết.
- Bài vị cúng giải hạn (nếu muốn): Phải nhờ người khác cúng, dùng giấy vàng, chữ đỏ, thắp 9 ngọn đèn hướng Mậu – Kỷ, cùng với hương, đăng, hoa, quả, nước, vàng mã và một tờ hình nhân thế mạng, cúng vào ngày giờ sao đăng viên.
SAO THÁI BẠCH
- Tên gọi: Đức Thái Bạch Tây phương Canh Tân Kim Thái Bạch tinh quân
- Đăng viên: 19 – 21 giờ ngày 15 âm lịch hàng tháng tại hướng Canh – Tân, chòm sao Thái Bạch có 8 ngôi. Thái Bạch là đại hung tinh, doanh nhân mà gặp sao Thái Bạch thì rất đáng lo ngại trong sự nghiệp vì nó chủ về hao tổn tài lộc.
- Kiêng kị: Thái Bạch kiêng kị cả năm, kiêng kị áo trắng, áo đen, kiêng kị ra đường ngày giờ sao đăng viên.
- Bài vị cúng giải hạn (nếu muốn): Phải nhờ người khác cúng. Dùng giấy trắng, mực đỏ viết sớ, thắp 8 ngọn đèn hướng Canh – Tân, cùng với hương, đăng, hoa, quả, nước, vàng mã và một tờ hình nhân thế mạng, cúng vào ngày giờ sao đăng viên.
SAO THỦY DIỆU
- Tên gọi: Đức Bắc phương Nhâm Quý Thủy Diệu tinh quân
- Đăng viên: 19 – 21 giờ, ngày 21 âm lịch hàng tháng tại hướng Nhâm – Quý, chòm sao Thủy Diệu có 7 ngôi.
- Nghênh sao: Mặc áo đen, tọa thiền hướng Nhâm – Quý vào giờ sao đăng viên. Thủy Diệu là cát tinh chủ về tài lộc, nhưng phải kiêng kị sông nước, tàu thuyền.
- Bài vị cúng nghênh sao (nếu muốn): dùng giấy đen, mực đỏ viết sớ, thắp 7 ngọn đèn hướng Nhâm – Quý, cùng với hương, đăng, hoa, quả, nước, vàng mã và một tờ hình nhân thế mạng, cúng vào ngày giờ sao đăng viên.
SAO LA HẦU
- Tên gọi: Đức Bắc Thiên cung thần thủ La Hầu tinh quân
- Đăng viên: 21 – 23 giờ ngày 18 âm lịch hàng tháng vào hướng chính Bắc, chòm sao La Hầu có 9 ngôi
- Kiêng kị: mặc áo vàng, đỏ, kiêng kị ra đường vào ngày giờ sao đăng viên. Kị nhất ngày giờ này trong tháng giêng và tháng bảy. La Hầu là tiểu hung tinh, chủ về đau ốm, tai khiên.
- Bài vị cúng giải hạn (nếu muốn): Phải nhờ người khác cúng, dùng giấy màu vàng, mực đỏ viết sớ, thắp 9 ngọn đèn hướng Bắc, cùng với hương, đăng, hoa, quả, nước, vàng mã và một tờ hình nhân thế mạng, cúng vào ngày giờ sao đăng viên.
SAO KẾ ĐÔ
- Tên gọi: Đức Tây địa cung thần vĩ Kế Đô tinh quân
- Đăng viên: 21 – 23 giờ ngày 18 âm lịch hàng tháng tại hướng Tây, chòm sao Kế Đô có 21 ngôi.
- Kiêng kị: mặc áo vàng, đỏ và kiêng kị ra đường vào giờ sao đăng viên. Kị nhất ngày giờ này của tháng ba, tháng chín. Kế Đô là hung tinh chủ về tai nạn, thương tật.
- Bài vị cúng giải hạn (nếu muốn): Phải nhờ người khác cúng, dùng giấy vàng, mực đỏ viết sớ khấn, thắp 21 ngọn đèn hướng Tây, cùng với hương, đăng, hoa, quả, nước, vàng mã và một tờ hình nhân thế mạng, cúng vào ngày giờ sao đăng viên.
Mẫu
VĂN SỚ CÚNG GIẢI HẠN SAO/ NGHÊNH SAO
Kính lạy:
Hữu Thiên chí tôn Kim Quyết Ngọc Hòang Thượng Đế
Đức Trung thiện tinh chúa tể Bắc Cực tử vi Tràng sinh đại đế
Đức Tả Nam Tào lục ty Duyên thọ tinh quân
Đức Hữu Bắc Đẩu cửu hàm giải ách tinh quân
Kính lạy: (chỉ xướng đúng tên sao trong bài vị đã bày, không xướng hết cả 9 sao)
- Đức Nhật cung Thái Dương Thiên Tử tinh quân
- Đức Nguyệt cung Thái Âm Hoàng Hậu tinh quân
- Đức Đông phương Giáp Ất Mộc Đức tinh quân
- Đức Nam phương Bính Đinh Hỏa Vân Hán tinh quân
- Đức Trung ương Mậu KỷThổ Tú tinh quân
- Đức Thái Bạch Tây phương Canh Tân Kim Thái Bạch tinh quân
- Đức Bắc phương Nhâm Quý Thủy Diệu tinh quân
- Đức Bắc Thiên cung thần thủ La Hầu tinh quân
- Đức Tây địa cung thần vĩ Kế Đô tinh quân
- Đức Thượng Thanh bản mệnh Nguyên thần chân quân
Nam vô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Bụt
Nam vô A Di Đà Bụt
Nam vô Như Lai Cô Đàm Bụt
Nam vô Tôn Hành Giả Đại Thánh khảo giáo nan đà
Nam vô Hưng Đạo Đại Vương Đại Thánh
Nam vô Nam phương Thiên Địa Thần linh
Na mô Tây phương cực lạc
Cứu khổ cứu nạn
Linh cảm linh ứng
Quan thế âm Bồ tát!
Tín chủ con là…
Địa chỉ cư ngụ...
Thành tâm thiết lễ
Giải hạn nhân tinh
Lòng thành cúi lạy
Trung Thiên tỉnh chủ
Bắc cự Tử vi
Kính mong
Đại đế Ngọc hoàng bệ hạ giáng trần soi xét
Các vì sao tinh tú chiếu soi
Giải hạn tâm linh
Trời Phật thánh hiền phù độ
Hạnh phúc đăng long
An lành vạn sự
Nguyện Tinh quân hạn thần chiếu tạc
Giải trừ bệnh tật, tai ương
Dứt tà hung, khiến gặp điều lành
Lòng thành khấn tấu.
Cúi mong chư Thiên-chư Phật-chư Thần
Các vì sao tinh tú
Kính mong: (xướng tên chỉ một trong các sao dưới đây theo bài vị)
- Đức Nhật cung Thái Dương Thiên Tử tinh quân
- Đức Nguyệt cung Thái Âm Hoàng Hậu tinh quân
- Đức Đông phương Giáp Ất Mộc Đức tinh quân
- Đức Nam phương Bính Đinh Hỏa Vân Hán tinh quân
- Đức Trung ương Mậu KỷThổ Tú tinh quân
- Đức Thái Bạch Tây phương Canh Tân Kim Thái Bạch tinh quân
- Đức Bắc phương Nhâm Quý Thủy Diệu tinh quân
- Đức Bắc Thiên cung thần thủ La Hầu tinh quân
- Đức Tây địa cung thần vĩ Kế Đô tinh quân
- Đức Thượng Thanh bản mệnh Nguyên thần chân quân
Chấp kỳ lễ bạc phù hộ độ trì
Chí thiết, chí thành, chí tâm bái lạy!
Đọc xong sớ cầu, chủ tế vái 8 vái về phía tám phương trời bắt đầu từ phương của chòm sao giải hạn. Cuối cùng là 3 lạy về phương của chòm sao cần giải hạn.
Vài điều bàn luận:
- Theo như tôi đã trình bày ở trên, thì giải hạn tại các đền chùa vào ngày rằm đều không hợp lý, vì ngày đó chỉ có sao Thái Bạch đăng viên?
- Vận hạn một đời người không hoàn toàn phụ thuộc vào sao Kiết Hung, mà trong dân gian còn đặt ra nhiều cái hạn khác nữa. Chả phải phương Tây cũng có 12 cung hoàng đạo đó thôi?
Ví dụ, năm nay là năm Tân Sửu, là năm đại hạn nặng nhất trong 60 năm cuộc đời của các đấng nam giới tuổi Tân Sửu. Nữ giới cũng đại hạn, nhưng gặp sao Thái Dương sẽ nhẹ hơn nam giới, gồm:
Tam tai năm thứ 3
Kim lâu hạn Kim thân
Hạn Thái tuế
Hạn Kiết hung sao Kế Đô, nữ sao Thái Dương
Hạn Hoa giáp gặp năm tuổi
Dù vậy, nếu lá số tử vi lập được, có thể tính toán ra vị nào có thể được giải thoát số mệnh khỏi tai ách. Nếu cung bản mệnh gặp sao giải thần chẳng hạn. Ngoài ra còn tùy vào tài vận của con cái, gia đình, dòng họ có thể cứu rỗi phần nào. Do đó, cùng tuổi, cùng hạn, nhưng sẽ có người chết, người bị thương, người lại bình thường không sao cả. Vậy thì,cúng giải hạn cứ coi như là uống viên thuốc an thần cho mình mà thôi...