Tìm kiếm
Trang chủ
Diễn đàn
An Tĩnh cổ lục
* Dấu tích Việt Thường Thị và vai trò Nghệ An trong dòng lịch sử Việt Nam
* Những điều kỳ lạ Phlanhoa đọc được trong trời đất Việt Thường
* Việt Thường phong tục
Ẩm thực Nghệ An - Hà Tĩnh
* Văn hóa ẩm thực Việt Nam
* Dưỡng sinh
* Phật giáo có nguồn gốc ở Việt Nam
Khảo cổ Nghệ Tĩnh
Bản sắc văn hóa Xứ Nghệ
Ví dặm
Góc nhìn Phlanhoa
Phòng văn chương
* Bình luận
* Phản biện các nghiên cứu về Nguyễn Du và Truyện Kiều
* Phlanhoa viết
Phòng thơ
* Lý thuyết học làm thơ
* Thơ về Nghệ An - Hà Tĩnh
* Thơ Phlanhoa
* Thất ngôn bát cú
Du lịch đó đây
* Khoảnh khắc cuộc sống
Ngôn ngữ không lời
Trang thông tin xã Đức La
* Phlanhoa hát
Liên hệ - Góp ý
Liên kết website
ĐỊNH HÌNH NÒI GIỐNG, ĐỊNH HÌNH DÂN TỘC - Chương III, Mục III.1
 
(04h: 11-11-2021)
 ĐỊNH HÌNH NÒI GIỐNG, ĐỊNH HÌNH DÂN TỘC - Chương III, Mục III.1Độc giả đọc sử Phan Lan Hoa
***
Chương III : ĐỊNH HÌNH XỨ ẤN ĐỘ - THIÊN TRÚC VÀ NGUỒN GỐC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI
Mục III.1: Xứ Ấn Độ là xứ nào?

Ghi chú: Bản hiệu chỉnh mới 2021, có bổ sung thêm nhiều tư liệu so với nghiên cứu đã đăng năm 2017. Vì liên can đến nguồn gốc dân tộc Việt - Chăm, cho nên Phan Lan Hoa quyết định gộp hai đề tài: ĐỊNH HÌNH NÒI GIỐNG, ĐỊNH HÌNH DÂN TỘC và PHẬT GIÁO CÓ NGUỒN GỐC VIỆT NAM thành một.
***

 

 

ĐỊNH HÌNH NÒI GIỐNG, ĐỊNH HÌNH DÂN TỘC

CHƯƠNG III.

ĐỊNH HÌNH XỨ ẤN ĐỘ - THIÊN TRÚC VÀ NGUỒN GỐC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI

Độc giả đọc sử Phan Lan Hoa

***

          III.1. XỨ ẤN ĐỘ LÀ XỨ NÀO?

          Vì sử gia dạy dân Việt Nam gọi India là Ấn Độ, cho nên bài này tôi phải làm cái việc mở ngoặc sau từ Ấn Độ (India) và Ấn Độ (Indonesien) để phân biệt. Và tôi sẽ trình ra được chứng cứ xứ Đông Dương mới là xứ Ấn Độ, còn nước mà Việt Nam đang gọi là Ấn Độ có tên phiên âm là Hin-đu (Indus), tên tiếng Hán là Thân Độc (身毒). Dường như cả thế giới này chỉ có người Việt Nam gọi xứ ấy là xứ Ấn Độ mà thôi? Họ có nguồn gốc châu Âu.

TRƯỚC HẾT BÀN VỀ TÊN GỌI:

Indus: Phiên âm là Hin-đu, tên Hán là Thân Độc (身毒), tiếng Anh là India (In-đi-ờ).

Indonesien: Phiên âm là Ân-đô-nê-diên, người Pháp gọi là Indochine. Các nhà nhân chủng học phương Tây gọi là Proto-Indochinoise (Nguyên Đông Dương). Tên Hán là Ấn Độ ( ). Dịch theo nghĩa Hán Việt là pháp ấn, ấn sư, hoặc ẩn sư.

VỀ VỊ TRÍ ĐỊA LÝ:

India: Là nước tiểu lục địa, thuộc Nam Á

Indonesien và Vedoid: Là cư dân thuộc bán đảo và đảo.

Xứ Ấn Độ được mô tả trong lịch sử Phật giáo là các quốc đảo và bán đảo. Kết quả khảo cổ cho thấy văn minh Ấn Độ (Indonesien) có mặt tại Việt Nam lâu đời hơn ở Ấn Độ (India) trên dưới ngàn năm. SÁCH KHẢO CỔ HỌC BÀ RỊA VŨNG TÀU, có nói về loại hình trang sức bằng mã não, đá ngọc và thủy tinh. Tại di chỉ Bãi Cọi ở Hà tĩnh và Làng Vạc ở Nghệ An, cũng có loại hình này. Các nhà nghiên cứu khảo cổ kết luận đó là Văn hóa Ấn Độ. Nhưng rồi họ lại bỏ ngõ nguồn gốc di chỉ Ấn Độ ở kết luận cuối cùng rằng:

“…Tuy nhiên, từ những tài liệu khảo cổ học ở cụm di tích mộ táng cận biển Đông Nam Bộ, như Giồng Lớn, Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt, ta có thể khẳng định niên đại có mặt hạt chuỗi thủy tinh và đá quý – dòng hạt chuỗi thương mại ở Miền Nam Việt Nam, sớm hơn rất nhiều niên đại có trong ghi chép trong thư tịch Trung Quốc và các tài liệu Sankrit cổ của Ấn Độ (India). Điều này cũng xảy ra trên nhiều địa bàn khác ở Đông Nam Á…”.

Trong các tư liệu nghiên cứu về Ấn Độ mà tôi có. Hầu như 100% các nhà nghiên cứu vô tư nhầm lẫn giữa hai nền văn minh Indonesien thuộc về đảo và bán đảo Đông Nam Á, với nền văn minh Hin-đu (Indus) thuộc về tiểu lục địa Nam Á? Chuyện này hệ trọng ở chỗ là sự vô tư của các vị đã đánh cướp đi nền tảng văn minh có sức ảnh hưởng rất lớn ra ngoài thế giới của các nước Đông Nam Á, bao gồm trình độ luyện kim, kỹ nghệ chế tác đồ mỹ nghệ và nguồn gốc Phật giáo!?

Cuộc kết nối thương mại với châu Âu, Trung Hoa và Ba Tư bằng đường biển đã sớm bắt đầu từ thời kỳ Sơ sử. Để xác minh được vấn đề, trước hết cần xác minh cụm từ “Indus”, hay “Indo” ghi chép trong tư liệu lưu trữ tại các tàng thư các của các nước Pháp, Anh, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Trung Quốc và India. Mặt khác xem xét theo đường truyền đạo của các cha xứ và cuối cùng là giá trị khảo cổ học của các nước Đông Nam Á, so sánh niên đại với India. Từ gốc rễ từ ngữ để phân biệt đâu là nội dung thuộc về Văn minh Indus, đâu thuộc về nên văn minh Ấn Độ (Đông Nam Á). Đây là việc làm vượt ra ngoài khả năng nghiên cứu của cá nhân tôi, nên chỉ có thể kêu cứu mà thôi!

SỬ SÁCH CHÉP VỀ XỨ ẤN ĐỘ

Những trang tư liệu tôi sẽ trình ra, khó có nhà nghiên cứu Việt Nam nào có thể phủ nhận ý kiến của tôi rằng Xứ Ấn Độ là xứ Việt Nam, bởi vì ngôn từ của nó mang tính khẳng định!       

Sách ĐÔNG DƯƠNG NGÀY XƯA VÀ NGÀY NAY - Henri-Cucherousset, là một cuốn sách nghiên cứu về Đông Dương bao gồm cả nhân chủng học. Thể hiện rằng chủng người Indonesien thuộc đại chủng Australoid. Tác giả nhấn mạnh là sự hòa hợp giòng máu của tộc người Giao Chỉ từ phương Bắc với giòng máu người Mường. Rồi tác giả khẳng định, người Mường và người Chàm của An Nam thuộc các chủng người Indonesien (Ấn Độ). Sách này cũng nói, ban đầu người ta nghi ngờ giống người Ấn Độ là từ đảo Mã Lai vào đất liền, nhưng sau đó kết quả nghiên cứu ngược lại. Giống người Ấn Độ là cư dân tầng nền tại bán đảo Đông Dương.

Trang 13, sách DÂN TỘC CHÀM LƯỢC SỬ (Dohamide-Dorohiem), chép: “… Nhưng xét vị trí của Lâm Ấp, B.P. Grolier, cho rằng người Chàm cũng gốc người In-đô-nê-xiêng, giống người đã tạo nên nền Văn hóa Đông Sơn và nền Văn hóa Chàm chính là do sự dung hợp giữa Văn hóa Đông Sơn và các ảnh hưởng trội yếu từ phía Ấn Độ…”.

Sách TÂM LÝ DÂN TỘC AN NAM, có những dòng khẳng định: “… Sự mở rộng tiếp tục về phía Nam, đặt người An Nam vào tình trạng tiếp xúc với các dân tộc bản địa mới. Trong đó có Mọi và Kha, không nghi ngờ gì, là những đại diện cuối cùng, cùng với một dân tộc thuộc chủng Mã Lai và nền Văn minh Ấn Độ: Người Chăm…”.

Đi tìm để nhặt nhạnh, phân tách đâu là Indus, đâu là Indonesien, tôi có cảm giác mình cũng giống như việc cô Tấm ngồi nhặt một sàng thóc lẫn gạo. Sách LƯỢC SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ của thiền sư Thích Thanh Kiểm là một trường hợp như vậy. Sách của Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Thế Anh cùng trong tình trạng này. Tuy nội dung bị nhầm lẫn loạn xạ giữa Ấn Độ (India) và Ấn Độ (Indonesien), thậm chí còn nhầm lẫn cả thánh thần của nhiều dòng đạo. Nhưng may thay, ngay phần dịch lời tựa của tác giả lại mô tả vị trí địa lý Ấn Độ đúng vào vị trí địa lý của vương quốc Champa:

Lịch sử Phật giáo có trên 2500 năm. Lúc đầu Phật giáo được triển khai từ Ấn Độ, rồi dần dần lan tràn ra hai ngả Bắc phương và Nam phương. Bắc phương là các nước Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản. Nam phương là những nước Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Cao Miên, …”.

Việt Nam là bắc phương, còn nam phương là Cao Miên của Ấn Độ, vậy thì đã rất rõ ràng là Vương quốc Champa. Nhưng sách ĐÔNG DƯƠNG NGÀY XƯA VÀ NGÀY NAY, lại khẳng định Dân tộc Mường và người Chàm thuộc giống người Ấn Độ.

Tại mục 2.4. “Định hình dân tộc Lạc Việt”, tôi đã phân tích nguyên nhân của truyền thuyết 50 người con lên rừng thành dân tộc Giao Chỉ và Mường. Trên thực tế, những vị sư Ấn Độ ( ) xuất hiện ở thành Liên Lâu, trong thời kỳ Sĩ Nhiếp cai trị. Đại Việt sử ký toàn thư, có lá thư của một người Hán là Viên Huy gửi cho thượng thư Lịnh Tuân Úc (năm 207), trong thư kể rằng:

“…Thái thú Sĩ Nhiếp ở Giao Châu mỗi khi ra đường đều có các nhà sư Ấn Độ ( ) theo xe xông trầm đốt hương, đánh chuông khánh, thổi kèn sáo…”.

Vậy thì truy cứu đến đây, cần phải bổ sung thêm vùng văn hóa Giao Chỉ vào xứ Ấn Độ. Hơn thế nữa, Liên Lâu không chỉ là trung tâm văn hóa Giao Chỉ, mà còn là Trung Tâm Văn Hoa Đông Phương, cũng là Trung tâm thịnh giáo của Ấn Độ Giáo.

Sách hồi ký về XỨ ĐÔNG DƯƠNG của ngài Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer, nhiều lần vị này gọi xứ Đông Dương là xứ Ấn Độ. Tại chương hồi ký về “Cao Miên và Ai Lao”, ngài Paul Doumer viết:

“Xứ Đông Dương mang tính hai mặt như cái tên của nó, với một mặt quay về văn minh thế giới và Trung Hoa, mặt kia là các xứ Ấn Độ, nhất là người Ấn mà hiện thân là người Miên...”

Truyền thuyết dựng nước của người Khơ-me chép rằng một đại sĩ Ấn Độ tên là Kambuvayambara đã đi đến vùng trung lưu sông Mê Kông và ở lại kết hôn với tiên nữ Mera, con gái thần Siva. Sinh ra dòng dõi Kampuja (viết tắt của Kampu và Mera). Đó cũng chính là nguồn gốc tên gọi dân tộc Campuchia bây giờ.

Ngài Toàn quyền Đông Dương viết về nhân vật Đệ nhị phụ chính đại thần triều Nguyễn, đời vua Thành Thái là Nguyễn Trọng Hợp. Vị quan này được triều đình nhà Nguyễn cử đi sứ sang Paris năm 1894 và từng có một tập thơ 36 bài ca ngợi cảnh sắc Paris. Trong đó có bài ông đã viết khi chợt gặp mấy khóm tre nhiệt đới giữa trời Tây (trích dẫn nguyên văn theo sách “Hồi ký Xứ Đông Dương”):

“Từ Ấn Độ qua châu Âu, khí hậu thay đổi rất rõ

         Thấy kỳ hoa dị thảo mọc lên um tùm rập rạp

Và ngạc nhiên thay giữa xứ sở gió lạnh buốt xương này

Ta vẫn gặp “người quân tử” hiên ngang vươn thẳng, xanh tươi giữa trời Tây”

Tác giả đã chú thích ở bài vịnh này như sau: “Tại khu vườn nhiệt đới trong nhà kính, tôi thấy tám, chín khóm tre xanh tốt. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy loại cây này từ khi rời Ấn Độ...”

Truy tìm nguồn gốc tên gọi của chủng người Indonesien có lẽ được đặt theo tên Ấn Độ, mà Ấn Độ là tên gọi chung của một xứ gồm 5 dân tộc lớn ở bán đảo Đông Dương: Giao Chỉ - Mường – Việt – Chàm - Miên. Mà theo các bản báo cáo của các nhà khoa học khảo cổ, hai loại hình nhân chủng cơ bản, tạo nên lớp cư dân tầng nền bản địa của Đông Nam Á cổ, là Indonesien (Ân-đô-nê-diên) và Vedoid (Vê-đô-ít). Các nhà nhân chủng học phương Tây gọi là “Proto-Indochinoise” (Nguyên Đông Dương). Cho đến thời kỳ Hậu Đông Sơn, kết quả khảo cổ cho thấy di cốt tìm được đa phần là “Australoid, có vài nét Mongoloid”. Khác với các tộc người Bách Việt còn lại ở Trung Quốc hiện nay, được các nhà nhân chủng học kết luận là “Mongoloid phương Nam”. Còn dân tộc Hin-đu lại được kết luận có nguồn gốc châu Âu. Kết luận về nhân chủng học phủ quyết giả thuyết rằng người Ấn Độ (Indus) sang chiếm lĩnh Đông Dương. Các nhà khoa học nhân chủng khẳng định giống người Ấn Độ (Indonesien) có nguồn gốc Đông Dương.

Vậy có thể quy hoạch vị trí địa lý của xứ Ấn Độ gồm Việt Nam và Cămpuchia. Nơi xuất phát Văn minh Ấn Độ đồng nhất với văn Minh Đông Sơn – Sa Huỳnh. Đến đời Hán Anh Đế, lan tỏa theo hướng bắc và trung tâm thịnh giáo lớn nhất của Ấn Độ giáo là thành Liên Lâu (Bắc Ninh), đây chính là thủ phủ bộ Giao Chỉ. Năm 137, lan tỏa theo bước chân di cư của người Chàm vào Nam, rồi lan tỏa ra các “quốc đảo ngoài Thiên Trúc” ở Đông Nam Á. Từ Thiên Trúc, năm 62 Phật giáo tỏa vào Trung Quốc, rồi sau đó mới từ Trung Quốc truyền sang Tây Tạng, Mông Cổ, Nhật, Triều Tiên. Con đường lan tỏa này, sự ảnh hưởng của Phật giáo tại India thực sự chỉ từ khoảng thế kỷ XI và sự phổ cập cho đến nay mới chỉ khoảng chưa đến 2% tôn giáo ở quốc gia này, cho nên không thể có chuyện gốc gác Phật giáo ở đó?

III.2. NƯỚC THIÊN TRÚC Ở ĐÂU?

***

TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ SỬ DỤNG:

- Tổng tập Văn học Phật giáo – TS Lê Mạnh Thát

- Dân tộc Chàm lược sử - Dohamide-Dorohiem

- Đông Dương ngày xưa và ngày nay - Henri-Cucherousset

- Lược sử phật giáo Ấn Độ - Thiền sư Thích Thanh Kiểm

- Tâm lý dân tộc An Nam – Paul Giran

- Hồi ký Đông Dương – Paul Dourmer

- Khảo cổ học Bà Rịa Vũng Tàu

- Tâm lý dân tộc An Nam – Paul Giran

- Bách khoa thư Văn hóa cổ điển Trung Hoa – Nguyễn Tôn Nhan

- Bụt sử lược biên thiệt truyện – Pierre RE

- Phật giáo Việt Nam – Trần Văn Giáp (bản tiếng Pháp – Tuệ Sĩ dịch)

- Phật giáo Nam kinh tông – Thiện Hậu

- Tục cao tăng truyện

- Thiền uyển tập anh

- Luận biện chính

- A Dục vương truyện

- A Dục vương kinh

- Phật giáo Việt Nam – Nguyễn Đăng Thục

- Lịch sử Việt Nam, Champa, Trung Quốc thời Hán – Tùy – Đường

- Hậu Hán thư

 


Để gửi ý kiến nhấp vào đây

Các tin khác:
 ĐỊNH HÌNH NÒI GIỐNG, ĐỊNH HÌNH DÂN TỘC - Chương I và chương II (16h: 10-11-2021)
 Lạm bàn cùng ông Hà Văn Thùy về bài viết: (17h: 19-02-2016)
 Dấu tích nhà nước Việt Thường Thị và vai trò Nghệ An trong dòng lịch sử Việt Nam (08h: 24-12-2014)
 Phụ lục 8: Những di chỉ, di cốt trong các hố khai quật ở Nghệ Tĩnh nói lên điều gì? (18h: 12-04-2015)
 Những người con yêu nước, nhưng đối lập về tư tưởng đường lối cứu nước của đất Hồng Lam trong thời kỳ chống Pháp (1884 – 1954). (22h: 09-03-2015)
 Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ - Hai con chim đầu đàn, có công lớn trong việc phát triển và bảo tồn hai di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại: Ca trù và Ví dặm. (12h: 13-02-2015)
 Thực hư của “Cột đồng Mã Viện” và “Tấu thư Cao Biền” (15h: 17-01-2015)
 Các nàng hằng nga tái thế ở La Giang làm thống lĩnh công tác hậu cần trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh của vua Lê Lợi (11h: 15-01-2015)
 Sự tích “Cá gáy hóa rồng” ở thác Vũ Môn liên quan đến lịch sử hai lần khởi đánh quân Nguyên Mông của nhà Trần. (00h: 11-01-2015)