CÁC LỄ CÚNG DỊP TẾT NGUYÊN ĐÁN
Kỳ 1: TÁO QUÂN LÀ AI?
Phan Lan Hoa
٭٭٭
SỰ TÍCH TÁO QUÂN TRONG TRUYỀN THUYẾT VIỆT NAM
Trọng Cao có vợ là Thị Nhi ăn ở với nhau đã lâu mà không con, nên sinh ra buồn phiền, hay cãi cọ nhau. Một hôm, Trọng Cao do giận quá mất khôn mà nhẫn tâm đánh vợ mạnh tay. Thị Nhi do sợ hãi và cảm thấy tủi nhục nên bỏ nhà ra đi không quay về nữa. Sau đó, Thị Nhi gặp Phạm Lang và bằng lòng làm vợ Phạm Lang, hai người sống với nhau cuộc sống thanh bình, hạnh phúc. Trong khi đó, sau khi vợ bỏ đi không về, Trọng Cao mới thấy ân hận khôn nguôi, nên khăn gói đi đi tìm vợ, tiền bạc đem theo đều đã tiêu hết, nhưng với quyết tâm phải tìm cho bằng được Thị Nhi, nên Trọng Cao đành phải đi ăn xin. Không ngờ khi lang thang xin ăn, Trọng Cao vô tình đã đến nhà Thị Nhi. Hai bên nhận ra nhau. Hiểu rõ tình cảnh, Thị Nhi rước Trọng Cao vào nhà cho ăn uống và nghe Trọng Cao hàn huyên về nỗi gian nan của mình, Thị Nhi đâm ra ân hận vì đã trót lấy Phạm Lang. Trong lúc hai người đang tâm sự thì Phạm Lang đột ngột từ ngoài đồng trở về nhà để lấy tro bếp bón ruộng, sợ chồng bắt gặp Trọng Cao nơi đây thì khó giải thích, nên Thị Nhi bảo Trọng Cao ẩn trong đống rơm ngoài vườn. Vì nhà hết tro, nên Phạm Lang phải ra đốt rơm để lấy tro bón ruộng mà không hay biết có Trọng Cao trốn trong đống rơm. Trọng Cao lại sợ ảnh hưởng đến Thi Nhi, nên không dám chui ra, đành chấp nhận chết thiêu. Thị Nhi trong nhà chạy ra thấy Trọng Cao vì mình mà chấp nhận chết thiêu, nên nhào vào đống rơm đang cháy để chết theo. Phạm Lang không hiểu sự tình, gặp tình cảnh quá bất ngờ, thấy vợ chết không biết tính sao, liền nhảy vào đống rơm đang cháy để chết theo vợ. Linh hồn của ba người do trong sạch nên được siêu thoát về trời để làm thần thánh. Nhưng Ngọc Hoàng cho rằng từ xưa đến nay chỉ có đàn ông nhiều vợ, chứ chứa có lệ đàn bà nhiều chồng, nên chỉ ban cho chức cai quản việc cơm no áo ấm, sức khỏe và tài lộc, phúc đức của mỗi gia đình. Mỗi người lại chỉ ban cho một cái áo dài thụng đen, chứ không có quần như các vị thần khác. Từ đó trong mỗi gia đình Việt Nam đều có ba vị thần tài phù độ, đó là:
- Phạm Lang làm Thổ Công, trông coi việc bếp lửa, bát cơm manh áo, danh hiệu là: Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân (東廚司命灶府神君), còn gọi là Táo Quân.
- Trọng Cao làm Thổ Địa, trông coi việc long mạch đất đai nhà cửa, danh hiệu là: Thổ Địa Long Mạch Tôn Thần (土地龍脈尊神).
- Thị Nhi làm Thổ Kỳ, trông coi việc tiền bạc, chợ búa, danh hiệu là: Ngũ Phương Ngũ Thổ Phúc Đức Chính Thần (五方五土福德正神), còn gọi là Thần Tài.
LÝ GIẢI HIỆN TƯỢNG
Táo (灶)là bếp, Quân (君)là vua, Táo Quân (灶君)là vua bếp.
Tên đầy đủ khi khấn vái là “Đình Phúc Táo Quân - 庭福灶君”, nghĩa là tam vị thần phước của mỗi gia đình.
Sự khác biệt giữa phong tục cúng táo quân ở Việt Nam và Trung Quốc:
Khác về số vị thần chủ quản:
- Táo quân Trung Quốc: thờ 2 vị một nam một nữ, chỉ chủ trì việc bếp núc, thần tài và thổ địa thờ riêng. Án thờ táo quân lập tại bếp; án thờ Thần Tài – Thổ địa lập dưới đất;
- Táo quân Việt Nam: thờ 3 vị hai nam một nữ (hai ông một bà), 3 vị thần Táo việt Nam đồng thời là 3 vị thần tài trong gia đình. Bát hương để ở vị trí cao nhất, trên án thờ gia tiên.
Khác về ngày cúng:
- Trung Quốc: từ 23 – 30 tiễn ngày nào cũng được; đón ông Táo về ngày mùng 4 tết;
- Việt Nam: Tiễn ông Táo về trời từ giờ Ngọ đến giờ Tý ngày 23 tháng Chạp và rước ông Táo về từ giờ Ngọ đến giờ Tý ngày 30 tháng Chạp, trước giờ Giao thừa
Khác về quan niệm tâm linh:
- Trung Quốc: Trong những ngày ông Táo về trời, người Trung Quốc lấy cành đào cắm trước cửa; lấy gỗ đào vẽ hình “tứ tung ngũ hoành” và gắn trước cửa để trừ tà ma nhân lúc ông Táo vắng nhà có thể vào gia đình quậy phá;
- Việt Nam: Từ sau lễ tiễn ông Táo về trời báo cáo công tác năm cũ. Chủ nhà luôn đốt đèn trên án thờ 24/24 không tắt. Hương vòng cũng được thắp từ đó đến ngày 30. Dựng nêu để xua tà quỷ không cho vào nhà. Ý nghĩa của việc hương đăng không tắt là để Táo quân từ trên trời nhìn ngọn lửa và làn khói có thể biết được an nguy của gia đình để bảo vệ.
Khác về lễ cúng:
- Trung Quốc: Chỉ cúng đồ ngọt như oẳn, kẹo thèo lèo, hoa trái. Thậm chí ở Quảng Đông còn có chuyện đem mật bôi vào miệng ông Táo. Quan niệm của họ là để năm mới nói toàn điều ngọt ngào;
- Việt Nam: Cúng cỗ đầy đủ mặn ngọt xôi thịt, hoa trái, rượu chè. Vàng tiền gồm 3 bộ áo thụng đen, mũ cánh chuồn đỏ và 3 đôi hia đỏ, tiền, vàng mã và tranh cá chép.
Khác phương tiện về trời của Táo quân:
- Trung Quốc: Táo quân cưỡi ngựa, nên người Trung Quốc cúng nước và cỏ khô làm thức ăn cho ngựa
- Việt Nam: Táo quân cưỡi cá chép. Ở miền Bắc có tục cúng cá chép sống. Sau khi cúng xong thì đem cá chép ra nơi có sông ngòi, ao hồ và một bụi cây. Chủ nhà lao con cá chép bay qua bụi cây rơi xuống nước, tượng trưng cho việc cá bay lên trời. Ở Hà Tĩnh cúng cá chép giấy đốt cùng vàng mã. Ở miền Nam phong tục bị nhiễu giữa Việt Nam – Trung Quốc, lễ cúng bị pha trộn giữa Ta – Tàu, không nhất quán bên nào.
THỜ CÚNG TÁO QUÂN NHƯ THẾ NÀO?
Theo tục lệ cổ truyền của người Việt hàng năm cứ đến ngày 23 tháng chạp âm lịch, Táo Quân lại cưỡi cá chép bay về trời để trình báo mọi việc xảy ra trong gia đình hạ giới với Ngọc Hoàng Thượng đế. Và đến ngày 30 tháng chạp, Táo Quân quay trở lại trần gian, để tiếp tục công việc trông coi cuộc sống gia đình của con người trong năm mới.
Vị trí của Đình Phúc Táo Quân trong tâm linh người Việt không giống người Trung Quốc. Táo Quân là thần linh tối cao nhất trong thờ phụng của một gia đình. Người Việt Nam có tục lệ thờ phụng rất trật tự trên dưới. Nếu là Phật sẽ lập chùa nơi yên tĩnh để thờ phụng, nếu là Thánh nhân sẽ lập đền thờ ở nơi trung tâm, nếu là Thành hoàng sẽ thờ phụng ở Đình làng, còn Đình Phúc Táo Quân là tam vị tài thần gia đình, được mỗi nhà chăm lo quanh năm ngay trong nhà mình.
Theo phong tục tập quán của người Việt, khi trong nhà có đại sự, cưới xin, giỗ chạp, vv... thường trước một hôm tổ chức sự kiện thi gia chủ bày “hương đăng hoa quả thanh chước chi nghi” lên trước hương án gia đình, rồi khấn niệm cẩn cáo “Thổ Công - Hà Bá” để xin phép ba vị “Táo Quân” trông coi gia đạo nhà mình cho phép Tổ tiên được về thụ lộc của con cháu. Ngày 23 tháng chạp chỉ là ngày chính thức cúng ông Táo, chứ không phải ngày duy nhất cúng ông Táo trong năm.
Vậy ngày 23 tháng chạp thực chất có ý nghĩa gì?
Hai ông hai bên một bà ở giữa, tức hai dương bên ngoài và một âm bên trong, đó là tượng của quẻ Ly, còn là tượng của phương Nam trong Hậu thiên bát quái và phương Đông trong Tiên thiên bát quái. Ngày 23 tháng Chạp ở phương Đông và phương Nam, chính là ngày kết thúc chu kỳ của 24 tiết khí. Đồng nghĩa với thời gian năm cũ đến đây là hết. Ngày lập xuân thường đến, trong khoảng từ 23 tháng chạp đến mồng 5 tháng giêng lịch Ta. Ví dụ năm 2021, ngày lập xuân rơi vào ngày 22 tháng chạp (mồng 4 tháng 2 Tây lịch). Như vậy cúng ông Táo thực ra là cúng hết chu kỳ tiết khí theo lịch Ta.
Lập bài vị và bát hương thờ Đình Phúc Táo Quân như thế nào:
Vị trí của “Đình Phúc Táo Quân” theo phong tục Việt Nam, cần đặt ở nơi cao nhất của bàn thờ chính trong gia đình. Trên một bàn thờ, cao hơn phía sau đặt bài vị thờ ba vị tam tài Thổ Công, Thổ Địa, Thổ kỳ. Vị trí thấp hơn phía trước đặt bài vị thờ gia tiên; hoặc gia đình khá giả có thể tách riêng rường thờ thành hai phần. Bên trái rường thờ (cao hơn) thờ Ngũ vị tài thần của người Việt gồm Hoàng Thiên (là vua cai quản vùng trời của một Quốc gia) – Hậu Thổ (là vua cai quản vùng đất lãnh thổ của một quốc gia) và ba vị Định phúc táo quân là thần bản gia.
Bài vị Táo Quân: Gồm một bức tranh Táo quân (như hình đi kèm), các chữ Nôm trên bài vị:
庭福灶君
東廚司命灶府神君
土地龍脈尊神
五方五土福德正神
(Đình Phúc Táo Quân
Đông trù tư mệnh Táo phủ thần quân
Thổ địa long mạch tôn thần
Ngũ phương ngũ thổ phúc đức chính thần)
Đối liễn hai bên:
有德能司火 (Hữu đức năng tư hỏa)
無思可達天 (Vô tư khả đạt thiên)
(Có đức trông coi việc lửa
Vô tư có thể lên trời)

Bát hương Táo Quân: Đứng trong nhà nhìn ra sân, trong khuôn viên đất nhà mình, thì bên trái là Thanh Long (long mạch chủ của khuôn đất). Tốt nhất là đào sâu xuống đến khi đụng phải nước mạch, lấy một chút đất lẫn nước ở đó, cùng với một chút tro giữa lòng bếp hợp lại trộn với thần sa, chu sa rồi cũng gói vào tờ giấy trang kim với tiền âm dương, tua rua ngũ sắc mà để xuống đáy bát hương trước khi đổ tro lên cho đầy. Trong trường hợp nhà phố mua sẵn không thể đào sâu xuống tới mạch ngầm thì đành chịu, chỉ dùng tro bếp hoặc cát sạch, thờ lâu cũng sẽ linh nghiệm.
Đồ thờ khác: Hai hũ gạo và muối, 3 chén đựng nước, đĩa đựng hoa trái, đèn, hương, lọ hoa
Lễ vật cúng trong ngày 23 tháng chạp thì cần thêm:
- Ba cái mũ đỏ, ba đôi hia đỏ, ba bộ áo dài thụng đen;
- Cá chép và vàng mã, gạo, muối, xôi, chè, thức mặn tùy tâm gia chủ có gì cúng nấy. Có thể cúng tranh cá chép hoặc cá chép sống đều được. Nếu cúng tranh cá chép thì sẽ đốt cùng áo mũ, tiền vàng; Nếu cúng cá chép sống thì phải đến thả một nơi có dòng nước chảy để cá chép có thể bơi được theo dòng.
Văn Nôm khấn Táo Quân ngày 23 tháng chạp:
Duy,
Việt Nam Cộng sản hoàng triều, Canh tý niên, chạp nguyệt, nhị thập tam nhật
Kim thần tín chủ...(tên gia chủ)... toàn gia cư trú tại...(địa chỉ cư trú)...
Cẩn dĩ phù lưu thanh chước, kim ngân, hương đăng, hoa quả,mâm bàn cụ vật, thứ phẩm chi nghi, cảm kiền cáo vu
Cung thỉnh
Bản gia Thổ Công Đông trù tư mệnh Táo phủ thần quân vị tiền
Bản địa Thổ thần kỳ vị tiền
Ngũ phương ngũ thồ phúc đức chinh thần vị tiền
Lai lâm chứng giám
Ủng hộ gia chủ từ lão chí ấu bình an hạnh phúc vô bệnh vô tật (quý vị có thể nói thêm nguyện vọng khác)
Thượng hưởng!
Một câu hỏi nhiều người thắc mắc, tại sao Trung Quốc cúng ngựa, còn Ta lại cúng cá chép? Tại sao chỉ có cá chép mới hóa rồng được, còn các loại cá khác thì không?
Khác với nội dung ở phần trên là tôi tổng hợp từ các sách vở về phong tục tập quán ở nước Ta, tức là soạn lại theo sách hướng dẫn của người xưa để lại. Còn từ dòng này cho đến cuối bài viết, là sự lý giải theo nghiên cứu cá nhân, bởi vì tôi không có cách lý giải nào khác phù hợp hơn ngoài sự kiện lịch sử liên quan đến suối Vũ Môn và dòng sông Tiêm được nhắc đến trong cổ tích Việt Nam về sự tích “Cá gáy hóa rồng”, nên phải đưa nó vào bài viết. Quý vị có thể tùy vào đức tâm của mình để tin hay không tin.
SỰ TÍCH “CÁ GÁY HÓA RỒNG” Ở THÁC VŨ MÔN LIÊN QUAN ĐẾN LỊCH SỬ HAI LẦN KHỞI ĐÁNH QUÂN NGUYÊN MÔNG CỦA NHÀ TRẦN.
Sách “Đại Nam Nhất Thống Chí” tại chương viết về Nghệ An lại chép: “Suối Vũ Môn: ở núi Vũ Môn trong dãy Giăng Màn, thuộc huyện Hương Sơn. Trên núi có thác ba bậc, mỗi bậc đến vài ba trượng đứng ngoài mấy trăm dặm trông như một làn khói đứng sững trong núi xanh. Tương truyền hàng năm cứ đến ngày 8 tháng 4, cá chép vượt được suối này thì hóa rồng, phường chài thường bảo nhau mấy ngày trước không bủa chài lưới, đúng ngày ấy thì chỗ này mây mù dày đặc không ai dám đến gần…”.
Tìm về với suối Vũ Môn, hương Khê, Hà Tĩnh, dân gian còn lưu câu hát:
Tháng ba cá đi ăn thề
Tháng tư cá về, cá vượt Vũ Môn
Rồi lại:
Mồng bốn cá đi ăn thề
Mồng tám cá về, cá vượt Vũ Môn
Lần theo câu ca, tôi đã có ý lục tìm nguyên nhân. Tại sao cả dân tộc cúng cá chép vào ngày hai ba tháng chạp, còn Hà Tĩnh thì nhân dân lại đem cá sang hát ở tháng ba, tháng tư? Sau khi lục lọi các tư liệu về văn hóa, lịch sử mà tôi có, thì tôi đi đến kết luận, sự tích “Cá gáy hóa rồng” và “Cá gỗ đi thi” đều có xuất xứ từ sự kiện lịch sử của dân tộc Đại Việt ba lần đánh tan quân Nguyên Mông ở đời nhà Trần, trong đó hai lần với mười vạn quân Hoan, Diễn đã đổ quân từ thác Vũ Môn đánh úp quân Nguyên Mông, dành thắng lợi vĩ đại.
Tôi sẽ ôn lại một vài mốc lịch sử các trận chiến giữa quân đội nhà Trần và quân Nguyên Mông:
Khoảng cuối tháng 12 năm 1284, Toa Đô lúc này đang chiếm giữ ở đất Chiêm Thành, phía Nam nước Đại Việt, đã viết tấu thư gửi vua Nguyên rằng: "Giao Chỉ liền đất với Chân Lạp, Chiêm Thành, Vân Nam, Xiêm, Miến, nên lập tỉnh ngay trên đất ấy và đóng quân trấn giữ ở ba đạo Việt Lý, Triều Châu, Tỳ Lan, lấy lương ở đó cấp cho quân sĩ, tránh được việc vận tải đường biển mệt nhọc".
Từ tấu thư của Toa Đô, lấy cớ mượn đường, Hốt Tất Liệt sai sứ đòi nhà Trần phải cho quân Nguyên mượn đường và cung cấp lương thảo để chinh phạt Chiêm Thành. Biết đây chỉ là kế "Mượn đường diệt Quắc", nên vua Trần từ chối. Giặc Nguyên liền chia làm 3 đạo tiến đánh Đại Việt.
- Đạo chủ lực do Thoát Hoan và Ariq Qaya chỉ huy từ Ninh Minh tiến vào Lộc Châu (nay là Lộc Bình, Lạng Sơn);
- Đạo thứ hai chỉ gồm hơn 1 nghìn quân Mông Cổ và Vân Nam do Nasirud Din từ Vân Nam vào Đại Việt qua vùng Tuyên Quang tiến theo sông Chảy;
- Đạo thứ ba do Toa Đô chỉ huy từ Chiêm Thành tiến vào Đại Việt.
Ngày 21 tháng 7 năm 1284, Hốt Tất Liệt phong con trai thứ 9 của mình là Thoát Hoan làm Trấn Nam Vương, sai Tangutai đến Chiêm Thành để truyền lệnh của hốt Tất Liệt điều đạo quân 20 vạn binh của Toa Đô đang chinh phạt ở Chiêm Thành quay sang chinh phạt Đại Việt.
Tại phía Bắc, sau 5 ngày xảy ra đại chiến, quân nhà Trần bị tổn thất nặng nề, tướng Đoàn Thai của Đại Việt bị bắt. Trần Quốc Tuấn phải thu quân về Vạn Kiếp. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, quân nhà Trần lúc này đã gần như tan vỡ; Trần Quốc Tuấn thoát được là nhờ có Yết Kiêu kiên quyết giữ thuyền đợi chủ tướng.
Ngày 11 tháng 2, thủy quân của giặc Nguyên do Ô Mã Nhi chỉ huy tấn công vào Vạn Kiếp và các trại quân Trần ở Chí Linh (Hải Dương). Đại kịch chiến đã xảy ra. Tuy giết được tướng Nguyên là Nghê Nhuận, nhưng quân Trần cũng thương vong nặng nề, Trần Quốc Tuấn tâu trình với nhà vua cho lui quân để tránh thế giặc mạnh. Thấy bề tôi lo lắng, vua Trần cho khắc hai câu thơ cuối thuyền ngự:
Cối Kê việc cũ khanh nên nhớ
Hoan, Diễn (1) vẫn còn mười vạn quân
Ngày 14 tháng 2, Ô Mã Nhi đem quân vây đánh Trần Hưng Đạo. Một trận thủy chiến lớn giữa 2 bên đã diễn ra. Vua Trần Nhân Tông phải đích thân đem quân đến trợ chiến cho Trần Quốc Tuấn rút lui khỏi Vạn Kiếp. Quân Nguyên từ Vạn Kiếp đi theo đường qua Vũ Ninh, Đông Ngạn. Đến sông Đuống, quân Nguyên và quân Trần giáp chiến. Trận này, quân Trần bị thiệt hại nặng, nhiều thuyền chiến bị lọt vào tay quân Nguyên.
Chủ trương sơ tán khỏi thành Thăng Long của vua Trần được ban ra. Để có thời gian chuẩn bị, vua Trần sai Đỗ Khắc Chung giả đò đưa thư cầu hòa dù biết thế nào cũng bị cự tuyệt. Ngày 17.2 quân Nguyên vào thành Thăng Long thì thành đã trở nên trống không. Giặc liền chia làm 2 mũi thủy, bộ đuổi theo quân nhà Trần tới tận Thiên Trường (Nam Định). Phát hiện quân Nguyên không đóng ở Vạn Kiếp, Trần Quốc Tuấn đem quân trở lại Vạn Kiếp chờ cơ hội phục thù.
Đầu tháng 3 năm 1285, đạo quân của Toa Đô từ Chiêm Thành đánh ra tới vùng Bố Chính (Bố Chính bấy giờ thuộc Châu Hoan Nam Giới, vùng đất còn lại từ bờ nam sông Gianh của tỉnh Quảng Bình thuộc đất Chiêm Thành). Trần Nhật Duật và Trịnh Đình Toản chỉ huy quân Trần ngăn địch, nhưng thất bại, phải rút lui. Trần Kiện đem một vạn binh của nhà Trần hàng giặc tại Bố Chính và báo cho Toa Đô biết Trần Nhân Tông đang ở Thanh Hóa. Có sự hỗ trợ của Trần Kiện, Toa Đô chia quân làm hai mũi. Một theo sự dẫn đường của Trần Kiện đi đường biển cấp tốc đánh ra Thanh Hóa hòng truy bắt Trân Nhân Tông. Mũi do Toa Đô trực tiếp chỉ huy tiến ra Hoan, Diễn. Trần Quang Khải, lúc này là thượng tướng, thống lĩnh mười vạn quân Hoan, Diễn, đóng tại Chi La tổ chức ngăn địch, nhưng do thế giặc lúc này còn mạnh, nên phải rút lui vào núi Vũ Môn. Toán quân của Toa Đô theo Trần Kiện tiến ra Vệ Bố (Quảng Xương, Thanh Hóa) đánh úp quân Trần tại đây, tướng Đinh Xa và Nguyễn Tất Thống của nhà Trần hy sinh trong trận này. Mặt trận tại Thanh Hóa thất thủ. Vậy “Tháng ba cá đi ăn thề” chính là sự kiện quân của Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật quyết tử với Toa Đô tại Hoan Châu. Ở đây xin có một lời bình luận: Theo các nhà sử học thì tổng số quân Nguyên khoảng 30 vạn; tổng số quân nhà Trần khoảng 20 vạn. Vậy thì “Hoan Diễn vẫn còn mười vạn quân” vị chi chiếm hết một nửa rồi? Trên thực tế, chính Trần Quang Khải là người thắng trận lẫy lừng ở Chương Dương và kéo quân vào giải phóng thành Thăng Long, vị chi đấy cũng là đạo quân ở Hoan, Diễn.
Tình hình nguy biến, khiến Trần Quốc Tuấn phải bỏ Vạn Kiếp, đem quân về cứu vua Trần ở Thanh Hóa, rồi theo đường biển rút về Hải Phòng, giặc lại truy đuổi ra Hải Phòng, nhà Trần phải rời tới vùng bờ biển ở Quảng Ninh. Khi thấy đạo quân của Toa Đô đã rời Thanh Hóa tiến về Trường Yên (Ninh Bình), Trần Quốc Tuấn vội vàng hộ giá vua Trần Nhân Tông vượt biển, quay lại Thanh Hóa. Từ đây, tắt rừng theo con đường thượng đạo tới Hương Khê và ẩn nấp tại núi Vũ Môn trong dãy Màn Trướng (chính là nơi có thác Vũ Môn). Do địa hình hiểm trở, rừng núi âm u, nên khi quân của Toa Đô và Ô Mã Nhi truy đuổi từ Thanh Hóa đến Hoan Châu thì mất dấu, lại gặp quân cảm tử của Trần Quang Khải đánh trả quyết liệt, nên không thể vượt qua sông Lam, đành phải cắm chốt lại tại núi Lam Thành (TP Vinh) để chờ cơ hội. Như vậy cũng giống như trước đó, cuộc chiến giữa vua Hùng với Thục Phán; rồi cuộc chiến Việt – Chăm; và sau này là cuộc chiến tranh giữa Lê Lợi với quân Minh, sông Lam nhiều lần là ranh giới chiến tuyến. Với trận quyết chiến cùng giặc Nguyên Mông (1285-1287), quân của nhà Trần do Trần Quốc Tuấn cầm cờ đại tướng; Hai vì lãnh tướng nhà Trần khác là Trần Quang Khải và Trần Nhật Duật, lúc bấy giờ thống lãnh mười vạn quân Hoan Diễn (và có lẽ là cả vua Trần Nhân Tông) trực tiếp chỉ huy, lấy đất Chi La (2) thuộc bờ Nam sông Lam là căn cứ địa. Quân của Toa Đô đóng tại núi Lam Thành ở bờ Bắc sông Lam. Tháng 5, mùa hạ, khi thám quân về báo, quân của Toa Đô vì nóng nực mà đổ bệnh, mệt mỏi, đang có ý rút quân ra Bắc. Trần Quang Khải cho rằng thời cơ tấn công quân địch đã đến, bèn tấu trình xin được xuất quân.
Sách An Tĩnh cổ lục- HIPPOLYTE BRETON, (tr.296) chép: “… Cuối thế kỷ XIII, nước Đại Việt hai lần bị quân Mông Cổ xâm lấn dưới đời Thái Tôn (1225-1258) và đời Nhân Tôn (1279-1293) (triều đại nhà Trần). Thời kỳ gay go nhất kéo dài trong những năm 1285 đến 1287. Quân Nguyên (tước hiệu triều đại Mông Cổ) đã đến tận An-Tĩnh và dò hỏi địa điểm của Đồng Trụ. Vua Thánh Tôn (1258-1278) và con trai là Nhân Tôn, người đã được phụ vương nhường ngôi, chạy trốn đến miền Trung, châu Thanh Hóa. Một phần lớn các đội quân của hai Ngài ẩn náu ở Chi La (Hà Tĩnh) và "con đường thượng đạo". Từ xứ này và từ con đường này, người An Nam đã đổ xuống để đánh úp quân Mông Cổ. Tướng Tàu là Toa Đô lúc đó đang chiếm giữ Lam Thành (núi Lam Thành – TP Vinh) phải rút lui. Như vậy Chi La là nơi phát xuất cuộc tấn công giải phóng cho đất nước thoát khỏi một cuộc xâm lăng ghê gớm làm cho nền độc lập của Đại Việt có lúc suýt bị diệt vong.”
Theo các sách Quốc sử Việt Nam ghi chép thì quân Trần từ Quảng Ninh về đến Thanh Hóa là ngày 7.4.1285. Suy ra, “Tháng tư cá về, cá vượt Vũ Môn”, hay “Mồng tám cá về, cá vượt Vũ Môn” đều là nhắc đến sự kiện trên. Từ Thanh Hóa vào Hoan Châu nếu đi tắt bằng con đường thượng đạo trên dãy Giăng Màn, thì chỉ một ngày đường là tới. Vị chi mùng 8.4.1285 chính là ngày Trần Hưng Đạo hộ tống vua Trần Nhân Tông “vượt Vũ Môn” vào đến địa phận Hương Khê (Hà Tĩnh). Tại đây nhà Trần được nhân dân Hoan, Diễn quyết một lòng tử thủ bảo vệ vua. Quân Trần nhờ đó, đã mau chóng phục hồi lấy lại sức mạnh đúng như lời ghi nhớ vua Trần Nhân Tông đã khắc lên ngự thuyền “Hoan, Diễn vẫn còn mười vạn quân”.
Tại trận Cao Lạng, đạo quân chủ lực do Thoát Hoan cùng Trần Ích Tắc (khi ấy đã được nhà Minh phong là An Nam quốc vương) cầm đầu, cùng con trai mới 9 tuổi là Trần Dục kéo theo sau đội quân Nguyên Mông, ý đồ tiến vào Thăng Long. Nhưng Thoát Hoan và Trần Ích Tắc đã gặp phải đạo quân của một vị tướng người Tày là Nguyễn Thế Lộc đánh cho tơi bời tại cửa ải Nội Bàng, chạy bán sống bán chết, về tới đất Tư Minh, Trung Quốc thì chỉ còn không quá 100 người. Hôm ấy đúng dịp tết Nguyên Đán năm Mậu tý (1288).
Tại sao lại “Cá gáy hóa rồng” mà không phải là loài cá khác?
Họ Trần ở Thái Bình có xuất xứ từ người Vạn Lạc. Vạn là vạn chài. Là một cộng đồng cư dân Lạc Việt chuyên nghề sông nước. Người Vạn Lạc khi xưa không có địa phận mà chỉ có thủy phận. Vạn quản lý hộ dân của mình theo nóc thuyền thay cho nóc nhà, người chết được thủy táng. Dù vậy cư dân Vạn Lạc vẫn có phân chia thủy giới đàng hoàng, có tổ chức đơn vị hành chính quản lý vạn tương tự như một xã. Vạn có chức lý trưởng, phó lý và ngũ hương và được quản lý bởi triều đình như cư dân trên bờ. Cư dân Vạn Lạc sống rải rác ven biển và các cửa sông đổ ra biển từ Hà Tĩnh tới Quảng Ninh.
Do nguồn gốc xuất thân chài lưới của họ Trần, nên khi sinh con đẻ cái, thường lấy tên các loài cá để đặt. Tổ họ Trần vốn tên là Chép, tiếng Hán cá chép gọi là lý ngư (鯉). Con của cá Chép là cá Dưa (Trần Thừa). Hai con trai của cá Dưa là cá Leo (Trần Liễu) và cá Lành Canh (Trần Cảnh). Trần Thị Dung cũng vốn có tên là Ngừ (cá ngừ), chỉ khi là hoàng hậu của Lý Huệ Tông mới đổi gọi là Dung. Nhưng ở Thái Bình nhân dân địa phương lập đền thờ bà vẫn gọi là "Bà chúa Ngừ".
Vũ Môn là một suối nước chảy ra từ núi Vũ Môn, ở độ cao trên 1000m, thuộc dãy núi Màn Trướng (tên khác là Giăng Màn, Trường Sơn). Không khí ở đây quanh năm mát mẻ như Đà Lạt, Sa Pa, hoa cỏ, muông thú đa dạng. Do tiết khí thường xuyên có mây phủ bồng bềnh lưng núi như buông màn, nên mới đặt là Màn Trướng. Suối có ba bậc thác, mỗi bậc cao trên dưới 50 mét. Ở bậc thác thứ hai, cảnh sắc kỳ thú bởi cầu vồng bảy sắc luôn thường trực ở lưng chừng dòng suối. Dưới cầu vồng là một hồ nước trong suốt, có đáy bằng đá, thật sự là nơi bồng lai tiên cảnh. Cuối chân thác cũng là đầu nguồn sông Tiêm trong truyện cổ tích “Cá gáy hóa rồng” (Hà Tĩnh gọi cá chép là cá gáy). Thắng cảnh ở đây tuyệt đẹp, hùng vĩ, cho đến nay vẫn còn hoang sơ nguyên thủy. Có điều, cả suối Vũ Môn và sông Tiêm đều không có cá gáy, mà đặc sản của dòng sông này là cá mát. Vậy hình ảnh cá gáy vượt Vũ Môn hóa rồng ở đây chỉ có thể là sự ví von của nhân dân An Tĩnh về Lý Ngư, đấng tối cao nhất của dòng dõi nhà Cá (họ Trần) mà thôi!
Tìm tới được đầu ngọn suối Vũ Môn cao chạm trời này, là họ hàng nhà Chép đã tìm tới nơi thần khí hùng thiêng của đất thủy tổ Lạc Việt. Đã lĩnh hội được nguồn sức mạnh của Rồng Tiên truyền xuống, để giúp dẫn dắt quân và dân một quốc gia nhỏ bé, đánh tan cả đạo quân Nguyên Mông hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ. Lý giải cho sự tích “Cá gáy hóa rồng” chỉ có thể là như vậy mới thấu đáo về ý nghĩa tâm linh của dân tộc!
Tại sao nho sinh Nghệ Tĩnh thường đem cá gỗ đi thi?
Tôi khẳng định chắc chắn không phải vì nghèo!
Sự lý giải sự tích cá gỗ xuất phát từ ông trạng họ Hồ tôi cũng đánh giá là sự ngộ nhận vì nội dung câu chuyện thể hiện không nắm rõ lịch sử. Đất Kẻ Chợ (Hà Nội) xưa còn lưu câu ca: “Cơm cầu Giáp, táp cầu Giền, chè quán Tiên, tiền Thanh Nghệ”. Nói thẳng tuột, đất An Tĩnh chỉ nghèo đi từ nửa thế kỷ XX. Có lẽ là do đập phá chùa đền mà mạt vận. Còn như ở thế kỷ XIX đổ về trước, Thanh Nghệ là đất vương giả. Vì là biên giới phía Nam của Đại Việt, nên thời gian vua đi tuần thú, ngụ ở Hồng Lam thường xuyên. Là nơi chủ lực về cung cấp lương thảo, quân binh trong các cuộc chiến giữa đại Việt và Chăm Pa. Tính cả đất Hồng Lam qua các triều Lý, Trần, Lê thì có trên dưới hai mươi phi tần, hoàng hậu, đó là chưa nói đến vô số quan quân tướng lĩnh, không lý gì để quê nghèo đói. Sách cổ ghi chép về xứ này, lễ hội chùa đền miếu mạo đông vui bốn mùa, làng nào cũng có tới vài ba đền, chùa, thậm chí như ở Nghi Xuân sự thờ phụng có đến từng xóm nhỏ, các sách cổ đều chép đầy đủ cả, tôi không nói ngoa. Cho nên xin đừng lấy cái nghèo ngày nay mà bịa đặt cho sự tích ngày xưa.
Cá chép là biểu tượng vượt ải gian nan đi đến thành công của nhà Trần. Hình tượng cá trong triều đại này, không chỉ là câu chuyện “họ hàng nhà Cá” đem Vũ thác hủy diệt Nguyên Mông. Mà trước đó còn có chủ trương cải cách thất học trong dòng họ nhà Trần do Trần Thủ Độ đề xướng. Nhà Trần từ khi dời lên kinh thành Thăng Long, đã áp đặt một chế độ quyết liệt và bắt buộc gắt gao về sự nghiệp học hành trong hàng ngũ con cháu, nhằm mục đích chuẩn bị nền tảng trí thức cho một cuộc cách mạng chính trị “vượt ải long môn” đem cá Chép ngự lên bệ rồng.
Mang theo con cá chép gỗ trong hành trang ứng thí của nho sinh Nghệ An, có hai ý nghĩa: vừa để cầu may phù hộ, vừa là mang theo hình tượng kiểu mẫu về vượt khó đổi đời của dòng dõi nhà Trần để noi gương phấn đấu. Tử sĩ nhìn vào cá gỗ để tự nhắc nhủ mình phải quyết tâm thi đỗ. Bởi đỗ đạt là đồng nghĩa với đổi đời, từ áo thâm đổi sang áo gấm, từ tầng lớp nông dân thấp hèn lên quyền quý cao sang. Cá vượt long môn hóa rồng là nghĩa làm vậy.
***
Tài liệu tham khảo:
- An Tĩnh cổ lục - Hippolyte Breton
- Việt Nam Sử lược - Trần Trọng Kim
- Khâm định Việt sử thông giám cương mục triều Nguyễn
- La Sơn Yên Hồ - Hoàng Xuân Hãn
- Đại Nam nhất thống chí - Lê Quý Đôn
- Đại Việt sử ký toàn thư
- Hồng Lam văn vật – Thái Kim Đỉnh
- Làng cổ Hà Tĩnh
- Phong tục thờ cúng tổ tiên trong gia đình - Toan Ánh
***
Chú thích:
(1) Hoan, Diễn: Châu Hoan, Châu Diễn. Ở thời nhà Trần từ Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu thuộc châu Diễn; từ Thanh Chương (Nghệ An), đến Can Lộc (Hà Tĩnh) là Châu Hoan; Ba huyện Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh gọi là Châu Hoan Nam Giới.
(2) Chi La: Gồm Nghi Xuân, Can Lộc, Đức Thọ, Hương Sơn, Thanh Chương thuộc đất Chi La. Đến đời nhà Lê đổi là La Giang

Sông Tiêm trong sử tích "Cá gáy hóa rồng"